Màu yêu trong đồng tử thơ Linh

09:10 23/04/2009
NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Khi chạm vào cơn lốc và những điệu rock thơ mang tên Vi Thuỳ Linh, bất chợt tôi nhớ đến câu thơ dịu dàng và sâu thẳm của Paul Eluard: Trái đất màu xanh như một quả cam. Với P. Eluard, tình yêu là một thế giới tinh khiết, rạng rỡ và ngọt ngào: Đến mức tưởng em khỏa thân trước mặt. Còn Vi Thuỳ Linh, nếu ai hỏi thế giới màu gì, tôi đồ rằng nàng Vi sẽ trả lời tắp lự: Màu yêu.

Yêu chính là nhịp mạnh, là năng lượng cơ bản cháy lên trong đồng tử thơ Vi Thuỳ Linh. Xem ra, Vi Thuỳ Linh muốn chinh phục độc giả và tạo ra độc giả của mình bằng cách yêu của lửa, bằng sự mê đắm của một người tận hiến: Nở tận cùng đến chết. Cả ba tập thơ Khát- Linh- Đồng tử là sự kế tiếp của một hành trình bền bỉ và tự tin: hành trình tình yêu. Như thể, chỉ một phút không yêu, Linh sẽ thấy ngày tận thế.

2. Nhưng đâu riêng gì Vi Thuỳ Linh mới tự coi mình là tín đồ của tình yêu. Đàn chị của Linh, nữ sĩ Xuân Quỳnh cũng hết sức mãnh liệt: Làm sao được tan ra-Thành trăm con sóng nhỏ-Giữa biển lớn tình yêu-Để ngàn năm còn vỗ. Hai chữ ngàn năm trong con sóng của Xuân Quỳnh đã đẩy khát vọng hòa nhập thành bất tử. Tuy nhiên, thuộc thế hệ 8X, những dòng nham thạch cảm hứng thơ Vi Thuỳ Linh tuôn trào với cường độ mạnh hơn nhiều. Nó chuyển động với nhịp điệu hối hả. Nó hiện hữu trong hơi thở thường ngày: Em mặc những vân tay anh, hằn vết. Nó đạt tới đỉnh cao bằng khoái cảm hàm chứa sự sinh sôi: Những cặp chân khóa chặt nhau khước từ chân lý... Đây mới thực là câu thơ mang chất giọng Vi Thuỳ Linh. Một câu thơ khỏe khoắn và mang âm hưởng nữ quyền. Vi Thuỳ Linh muốn truyền đến độc giả ý tưởng nghệ thuật đẹp: Tình yêu luôn có khả năng sinh tạo nhiều chân lý mới! Tôi nghĩ, về phương diện “nổi loạn” và “tinh thần phục hưng”, Vi Thuỳ Linh đã phần nào tiếp nối được nguồn nhựa sống phong phú và mãnh liệt của bà chúa thơ Nôm họ Hồ cho dù chưa hẳn cây bút này đã tự ý thức được điều đó. Chỉ có điều, trong thời internet và hội nhập toàn cầu, Linh và các nhà thơ cầm bút thời hậu chiến được hưởng một không gian sáng tạo cởi mở hơn nhiều. Họ được phép nói to những suy nghĩ cá nhân, được tự do bày tỏ những khát khao thầm kín nhất. Thời thế và bản lĩnh, trong tinh thần duy mỹ và tận lực vì nghệ thuật đã giúp Vi Thuỳ Linh tạo được phong cách mang dấu ấn độc đáo. Chị dám đề cập đến vấn đề tính dục và coi nó như một đối tượng thẩm mĩ, một nguồn cảm hứng không vơi cạn:

Liên tục từ em
Những ký hiệu, màu sắc âm thanh
Khuếch tán mọi con đường thơm của thế gian
Dành cho Anh một hành tinh non tơ
Tình yêu- như uyên ương khỏa thân mưa
Thân cuốn thân tranh lụa trắng.
Nhà thơ coi niềm khát yêu như một phương diện biểu đạt sức sống:
Muốn thêm một đêm anh trồng em
Muốn thêm nhiều đêm anh trồng em
Hối hả sống hình dung ngây ngất
Em thèm được sinh sôi như đất
Em thèm thở bằng hơi thở anh...

Cái lực sống luôn phải giành quyền kiểm soát với lực chết vốn là phát hiện của Freud đã được Vi thùy Linh chuyển thành thi ca. Tôi thực sự không hiểu sao nhiều người lại dị ứng với chất libido trong thơ Vi Thuỳ Linh khi mà ai cũng biết rằng tình yêu vừa có sự cao khiết về mặt tinh thần vừa phải mang màu trần thế. Thậm chí, trong quá trình đi tận cùng đam mê trần thế, người ta sẽ bắt gặp sự ngây ngất trong hòa hợp thiên thần. Một triết gia Đức có lần từng nói: Chạm tới cơ thể khỏa thân là chạm tới bầu trời. Vậy thì việc Vi Thuỳ Linh đưa vào thơ mình cảm giác Hãy giấu vào em cơ thể của Anh nào có lỗi gì. Chung quy, “tội” của Linh là cách yêu của nàng quá mạnh. Nhưng khốn nỗi tình yêu dịu dàng thì nhiều người đã nói. Vậy bạo liệt là nẻo đến của Linh. Linh muốn chết trong yêu. Yêu để biết thế nào là chết. Suy cho cùng, đó cũng là dấu hiệu của một bản lĩnh, thể hiện một cách nhìn thế giới, một phương thức phô bày bản ngã xuất phát từ một niềm tự tin:

Em miêu tả mình kỹ càng trong những bài thơ không có chữ Hết
Thơ cho những người phụ nữ thoát ảo ảnh cam chịu buông xuôi
Cự tuyệt vai trò thứ yếu
Chẳng chịu lượng sức mình
Vì trái tim đa tình bẩm sinh...

Cái tôi trong thơ Vi Thuỳ Linh là cái tôi dồi dào cảm hứng lãng mạn. Một cái tôi lúc nào cũng đòi yêu và đòi được yêu. Phía nào cũng phải hết mình. Bên nào cũng phải tận lực. Đó chính là thời điểm bản ngã được giải phóng tối đa. Cảm quan nghệ thuật ấy dĩ nhiên buộc Linh phải gây hấn với những cách yêu chừng mực, những giai điệu thơ quá nghiêng về êm ả. Những cơn lốc tình, lốc chữ, lốc ý trong thơ Vi Thuỳ Linh như nhà thơ Dương Tường nhận xét thực chất là ý thức khẳng định quyền được yêu sống, quyền tự do cá nhân. Đây là biểu hiện của tư duy nghệ thuật hiện đại: Tôi nhìn thế giới bằng đôi mắt của tôi! Biện chứng tình yêu trong thơ Linh là ở chỗ, yêu là động lực để tích tụ năng lượng thơ ca, thơ ca là con đường để phóng chiếu tầm mắt tình yêu nhằm tôn vinh vẻ đẹp Người. Linh muốn dùng sức mạnh của ngôn từ để biểu đạt sức sống:

Trên lưng Anh
Bơi mải miết ngón tay em dài trắng
Môi em trườn đêm căng
Duỗi chân dài, em nối những ranh giới, những núi đồi, sông biển, nhịp nhịp qua cầu đùi muốt...

Người đọc dễ nhận thấy đây là những câu thơ màu sắc sex khá đậm. Nhưng đó là những câu thơ đẹp thanh thoát và giàu sức gợi vì ngôn ngữ thân xác gắn chặt với nhịp thở của tình yêu. Những câu thơ như thế khá nhiều trong Đồng tử:

Cho em nắng óng cất từ màu da anh
Cho em tiếng cười từ khóe môi rộng lượng Anh
Cho em ngủ ngon trong vòng ôm định phận của Anh.

Trong tập thơ này, Anh bao giờ cũng xuất hiện dưới dạng viết hoa. Đó là một thái độ biệt nhãn, một hình thức thờ phụng tình yêu. Phải chăng Linh muốn làm như L. Aragon khi ông coi Elsa như một nguồn cảm hứng bất tận trong cuộc đời cầm bút của mình? Sau mười năm kiên trì theo con đường đã chọn, với tập thơ thứ ba, Vi Thuỳ Linh muốn mở rộng cảm hứng nhằm gửi đến người đọc một thông điệp giàu tính khái quát: Tình yêu là phát minh vĩ đại nhất của mọi thời bởi đó là nguyên nhân sinh ra thế giới. Nơi ấy cho ta hạnh phúc đến sôi trào, nghiêng đổ: Em uống Anh- ly rượu mạnh. Nơi ấy cũng là nơi ta tìm thấy sự bình yên tuyệt đối: Trên ngực anh, em an lành. Thực thể tình yêu trong thơ Vi Thuỳ Linh mang nhiều màu sắc và cung bậc khác nhau. Nó không nằm im lìm như những giải thích từ điển. Nó là một cây đời sung mãn, tràn căng nhựa sống. Tôi muốn lần theo những dòng chữ của Linh để tái dựng cấu trúc bộ gien xuyên suốt cõi yêu của nàng: khát khao và hối hả - dâng hiến và chiếm đoạt - hòa hợp và sinh thành... Thực ra, không ít trường hợp, khi mà thi hứng lãng mạn quá mạnh không kịp tiết chế, Linh rơi vào trạng thái ồn ào. Nhưng tôi nghĩ, với cách trình bày thế giới bằng đôi mắt tình yêu và ý thức muốn đập vỡ những rào cản, kị húy giả tạo để nói lên tiếng nói sâu nhất của một cái tôi lúc nào cũng khát thèm, Linh đã đưa ra một quan niệm nghệ thuật giàu tính nhân văn: ẩn trong em, nữ thần Aphrodite- Đến với mọi người bằng sóng chữ tình yêu. Không chỉ nói nhiều đến khoái cảm yêu đương, Linh bắt đầu nhận thấy hình hài những đứa con trong giấc mơ làm mẹ, trò chuyện với chúng trong niềm ngây ngất: Anh- em cùng các con hóa thành những giọt tím bay giữa ba chiều sự sống. Linh triết lý về nhân sinh và khẳng định tình yêu có khả năng cứu rỗi con người: Thế giới lung linh khi ta nhìn bằng mắt trong bác ái.

Tôi nghĩ, những nỗ lực trên đây của Vi Thuỳ Linh cho thấy chị đang tìm cách tạo ra sự đa dạng trong giọng điệu và mài sắc hơn cái nhìn nghệ thuật của mình. Đó là lý do vì sao trong Đồng tử đã xuất hiện những khúc đồng dao, xuất hiện nhiều câu thơ nói về thế sự. Linh bắt đầu suy ngẫm về các giá trị trong đời sống thường nhật, lắng nghe tiếng vọng ngày mai qua cảm nhận về kết quả tình yêu- những đứa con trong mơ và nụ cười hài nhi trong trẻo. Linh muốn chứng minh mình đang chín dần sau quãng thời gian năm năm náu mình trong im lặng. Năm mươi chín bài thơ mà Linh cố gắng chọn lựa trong tập Đồng tử cho thấy Linh không định đoạn tuyệt với thơ sau hai lần sóng gió. Và Linh đã trở lại! Trở lại để chứng minh một tình yêu song trùng vẫn còn nguyên vẹn: yêu Anh và yêu thơ. Tất thảy đều mãnh liệt, hết mình. Tất nhiên, đó là sự mãnh liệt và hết mình theo kiểu của Linh.

3. Đã có thể nói đến trường chữ của Vi Thuỳ Linh trong chặng đường mười năm nàng Vi tự nguyện dấn thân vào nghệ thuật. Linh thành thật tin rằng tình yêu và sức mạnh vô song của nó là khởi đầu của mọi khởi đầu. Niềm tin ấy và ý thức vượt thoát khỏi sự sáo mòn chữ nghĩa đã giúp Vi Thuỳ Linh có nhiều câu thơ đẹp, lạ, giàu sức gợi: Mặt trời thoát y vì em trẻ lắm, Hãy phủ thơ khắp thế giới của em... Dày đặc trong thơ Vi Thuỳ Linh là những động từ gây cảm giác mạnh nhằm diễn tả niềm khát khao hòa trộn. Linh không chọn cách yêu e lệ “nâng án ngang mày”. Cái mà Linh cần là cảm giác Cuồng phong thân người. Đó là nguyên nhân cơ bản nhất làm nên trữ lượng tình cảm phong phú của Vi Thuỳ Linh trong thơ. Như con ngựa không chịu bó mình vào những dây cương thể loại và những nguyên tắc vần điệu thông thường, Vi Thuỳ Linh lấy hơi thở tình yêu làm điểm tựa để kiến tạo nhịp điệu câu thơ. Nhịp điệu thơ Vi Thuỳ Linh là nhịp của cơn gió tình đồng vọng. Trong Đồng tử, Linh nói nhiều về âm nhạc, dùng nghệ thuật để cảm nhận nghệ thuật. Nhưng thực ra, rốt lại, đó vẫn là cách yêu của Linh. Té ra, chữ yêu trong cái nhìn/ đồng tử của Linh rộng hơn ta tưởng. Đó không đơn giản là tình yêu trai gái mà sâu hơn, Linh muốn trình bày quan niệm sống: khi yêu, con người có khả năng nhân đôi mình; khi yêu thế giới này sẽ đẹp hơn bội phần. Đó là ý thức muốn mở rộng vùng địa chấn thơ ca của Vi Thuỳ Linh. Nhưng dường như có lúc trong Đồng tử, Linh chuẩn bị cho điều này chưa thật chín. Chính nó đã hạn chế chiều sâu triết lý của thơ Linh. Trong những trường hợp ấy, Linh chỉ mới dừng lại ở mức tạo nên những câu thơ thông minh mà chưa đủ để trở thành một thông điệp thẩm mĩ có khả năng gây ám ảnh. Xin dẫn một ví dụ: Cuộc sống còn nhiều đẹp lắm- Ta tin điều ấy như mình tin ta- Chợp mắt ngủ trong tay- say sưa sen đường thơ... Nhưng vấn đề nằm ở chỗ, khi biết mở rộng và không ngừng nâng tầm văn hóa thơ, Vi Thuỳ Linh đã ý thức được sự trường vốn trong sáng tạo. Theo tôi, đây là tín hiệu thật đáng mừng, nhất là khi Linh mới tuổi hai lăm. Vâng, mới hai lăm tuổi, Linh sẽ còn góp cho thơ ca nhiều điều mới mẻ. Xin loài người hãy hiểu, trong bản đồ thơ đương đại, từ ấy đã có Vi Thùy Linh!

N.Đ.Đ

(202/12-05)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LẠI NGUYÊN ÂNTrước khi vào đề, tôi phải nói ngay rằng trong thực chất, người đã thúc đẩy tôi viết bài này là nhà Việt học người Nga Anatoly Sokolof. Tôi nhớ là anh đã ít nhất một lần nêu với tôi: hiện tượng mà người ta đang gọi chung là “thơ Hồ Xuân Hương” nên được tiếp cận từ góc độ “mặt nạ tác giả”.

  • Ngôn ngữ văn học luôn mang dấu ấn thời đại lịch sử của nó. Đồng thời, thông qua ngôn ngữ tác phẩm người đọc có thể đánh giá được khả năng sáng tạo và phong cách sáng tác của người nghệ sĩ. Văn học Việt Nam từ sau 1975, đặc biệt là sau Đại hội VI của Đảng năm 1986 đã có những đổi mới mang tính đột phá trên mọi phương diện, trong đó có ngôn ngữ. Viết về đề tài lịch sử trong bối cảnh mới, các nhà văn sau 1975 không chịu núp mình dưới lớp vỏ ngôn ngữ cũ kĩ, khuôn sáo như trước.

  • Nếu có thể nói gì về tình trạng ngày càng thưa vắng các tiểu thuyết đọc được hôm nay, hay nói một cách chính xác hơn là sự vắng mặt của tiểu thuyết hay trong vài thập kỷ qua, theo tôi trước hết đó là vấn đề tâm thể thời đại

  • ĐINH XUÂN LÂM      (Hướng về 1000 năm Thăng Long - Hà Nội)Tiến sĩ Khiếu Năng Tĩnh sinh ngày 19 tháng 07 năm Quý Tỵ, niên hiệu Minh Mạng 14 (1833) tại xã Chân Mỹ, tổng Từ Vinh, huyện Đại An, phủ Nghĩa Hưng (nay là thôn Trực Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định).

  • HOÀNG TẤT THẮNG1. Khái quát về địa danh học.

  • NGUYỄN HOÀNG ĐỨCKhông có một xã hội nào sống và phát triển được nếu không cậy trông vào khả năng phê bình của chính mình. Nói một cách thật dễ hiểu, như người Pháp khẳng nhận: "Người ta dựa trên những gì chống lại mình".

  • PHONG LÊ      (Tiếp theo Sông Hương số 250 tháng 12-2009 và hết) Sau chuyển đổi từ sự chia tách, phân cách đến hội nhập, cộng sinh, là một chuyển đổi khác, cũng không kém tầm vóc: đó là từ cộng đồng sang cá nhân; với một quan niệm mới: cá nhân mạnh thì cộng đồng mới mạnh; cá nhân được khẳng định thì sự khẳng định vai trò cộng đồng mới được bảo đảm.

  • ĐÀO THÁI TÔNNhư chúng tôi đã có lời thưa từ bài báo trước, trong Thơ quốc âm Nguyễn Du (Nxb Giáo dục, H, 1996), thay vì việc xem "bản Kinh" của Truyện Kiều là bản sách in bởi vua Tự Đức, Nguyễn Thạch Giang đã viết đó chỉ là những bản chép tay bởi các quan văn trong triều. Điều này là rất đúng.

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện giờ báo chí chuyên về văn chương ở ta đã phong phú và đa dạng. Riêng Hội Nhà văn đã có các báo Văn nghệ, Văn nghệ dân tộc và miền núi, Văn nghệ Tre, và các tạp chí Tác phẩm mới, Văn học nước ngoài.

  • LÊ ĐẠT     Cầm tên em đi tìm

  • VŨ NGỌC KHÁNH        (Trích tham luận: “Thử bàn về minh triết”)

  • LTS: Thế giới đang xuất hiện trào lưu phục hưng minh triết sau một thời gian dài chối bỏ. Ở Việt cũng đã hình thành Trung tâm Nghiên cứu Văn hóa Minh Triết thuộc Liên hiệp các Hội Khoa học và Kỹ thuật Việt . Tiếp theo cuộc Hội thảo lần thứ I tại Hà Nội “Minh triết - giá trị nhân loại đang phục hưng”, cuối tháng 11.2009 tại Huế, Trung tâm đã tổ chức Hội thảo với chủ đề “Minh triết Việt trong tiến trình lịch sử văn hóa Việt”.

  • Giấy dó là sản phẩm thủ công của cha ông ta để lại. Xưa kia làng Bưởi có nghề làm giấy dó nổi tiếng. Giấy dó được dùng vào việc ghi chép văn bản chữ Hán nôm, viết bút lông mực tàu...

  • Sự phát triển của thực tiễn và lý luận nghệ thuật- dù ở đâu, thời kỳ lịch sử nào cũng vậy- thường phụ thuộc vào 3 nhân tố quan trọng và phổ quát nhất: Sự phát triển của khoa học và công nghệ; Những chính sách chính trị (trong đó bao gồm cả những chính sách về văn hóa và nghệ thuật); Những nhà tư tưởng và nghệ sỹ lớn.  

  • TRẦN HUYỀN SÂMClaude Lévi-Strauss là một trường hợp hiếm thấy và khó lặp lại trong lịch sử nhân loại. Lévi chính là một cú sốc đối với nền văn minh phương Tây. Lý thuyết của nhà cấu trúc học vĩ đại này là sự hạ bệ hùng hồn nhất đối với tư tưởng thống ngự và độc tôn của xã hội toàn trị châu Âu; và là sự biện minh sâu sắc cho một mô thức đa văn hóa của nhân loại.

  • LÊ THÀNH LÂNTrong 4 năm liền, Tào Mạt lần lượt cho ra đời ba vở chèo tạo nên một bộ ba chèo lịch sử với tiêu đề chung là Bài ca giữ nước, đều do Đoàn Nghệ thuật Tổng cục Hậu cần dàn dựng và đều được nhận những giải thưởng cao.

  • PHONG LÊĐó là: 1. Từ sự phân cách, chia đôi của hai thế giới - địch và ta, chuyển sang hội nhập, cộng sinh, có nghĩa là nhân rộng hơn các tiềm năng, cũng đồng thời phải biết cách ngăn ngừa, hoặc chung sống với các hiểm họa. 2. Từ cộng đồng chuyển sang cá nhân, cá nhân trở thành động lực quan trọng cho sự phát triển, nhưng cá nhân cũng sẵn sàng nổi loạn cho các ước vọng thoát ra khỏi các chuẩn mực của cộng đồng. Và 3. Từ phong bế (ở các cấp độ khác nhau) đến sự mở rộng giao lưu, hội nhập với khu vực và quốc tế, với sự lưu tâm hoặc cảnh báo: trong đi tắt, đón đầu mà không được đứt gẫy với lịch sử.

  • ĐỖ HẢI NINH(Nhân đọc tiểu thuyết Một mình một ngựa của Ma Văn Kháng. Nxb Phụ Nữ, H, 2009; tác phẩm nhận giải thưởng Hội Nhà văn Hà Nội 2009)

  • PHẠM QUANG TRUNGHiện nay, vấn đề đổi mới thi pháp đang được nhiều người cầm bút quan tâm. Xin ghi lại cuộc trao đổi mới đây giữa tôi (PQT) với một nhà văn (NV) về vấn đề bức thiết này.

  • (Theo bách khoa thần học New Catholie)THẨM GIÁ PHÊ BÌNH Việc thiết định giá trị phán đoán trong phê bình đã được kiểm thảo một cách nghiêm khắc trong thế kỷ XX. Chẳng hạn, người ta cho rằng phê bình đã vượt lên cả tầm vóc “viên đá thử vàng” trong việc thẩm giá hội họa để dẫn dắt thị hiếu thưởng thức hội họa của công chúng.