Mai vàng trước ngõ

08:38 02/02/2010
TRẦN CÔNG TẤNTôi có hai người bạn gái học cùng một trường, ngồi chung một bàn. Tôi ngồi giữa. Bên trái là Kim Mai, bên phải là Hồng Trinh. Tính nết hai cô khác nhau: Trinh luôn nói, cười. Mai thì lặng lẽ. Chỉ giống nhau ở chỗ cả hai cùng xinh đẹp và yêu mến tôi.

Ảnh: Internet

Chúng tôi có nhiều ước mơ. Hẹn nhau sẽ thực hiện sau khi xong đại học. Nhưng bước vào năm cuối cấp 3, thì mỗi đứa một nơi. Đầu năm học, bố Trinh gọi con vào trung tâm thành phố đóng phim hay làm du lịch gì đó. Giữa năm, mẹ Mai gọi con về đi học ngành dệt. Cuối năm đó, tôi đến tuổi đi bộ đội. Sau ba tháng tập luyện, tôi được điều đi đánh Pôn Pốt ở Kămpuchia.

Đêm hôm trước ngày tôi rời Hóc Môn, cả hai cô bạn đều đến chia tay. Hồng Trinh đi xe máy đến trước, đèn pha chiếu sáng choang, bóp còi inh ỏi. Xe dừng ngay giữa sân, Trinh vẫn ngồi trên xe, réo gọi:

- Thiện đâu! Không ra dìu em xuống xe à?

Má tôi hỏi: "Đứa nào đó?". Tôi cười, trả lời: "Bồ của con". Má tôi ngạc nhiên: "Tao tưởng cái con kia - con nhỏ ít nói, hay đến cuốc vườn giúp má. Nó là con Mai mà!".

- Vâng. Kim Mai - Tôi trả lời qua quýt với má rồi ra đón Trinh.

Vừa ngồi xuống ghế, Trinh mắng tôi như tát nước:

- Anh là ngờ nghệch lắm. Đi lính mà làm gì? Đang học ngon lành, sắp vào đại học, lại đùng đùng đi lính. Giá mà biết trước sớm, em chạy "lo" cho là Thiện yên chí ở nhà học tiếp. Còn tương lai của chúng mình nữa chứ. Sao anh dại dột thế?

Má tôi nghe Trinh nói vậy, cũng bùi ngùi:

- Trận mạc gì lại ra đi lúc Tết sắp đến. Tôi bảo cứ ở nhà ăn Tết xong xuôi hẵng đi. Hắn nói đang vào chiến dịch mùa khô. Phải đi ngay mới kịp. Mùa khô, mùa ướt mắc gì đến con?...

Thấy má tôi sụt sùi, Trinh bật khóc, kéo tôi ra sau vườn. Tôi đỡ Trinh ngồi xuống chiếc chõng tre, bên cạnh bụi xa-ri um tùm. Chổ này mát mẻ kín đáo. Tôi âu yếm ôm Trinh vào lòng, hôn lên đôi mắt, lên môi em mặn ướt xót xa. Trinh khóc nhiều lắm, lâu lắm, tấm tức mãi không thôi. Tôi chỉ biết dỗ dành Trinh bằng trăm ngàn cái hôn nồng thắm. Cuối cùng Trinh cũng nguôi ngoai, em ôm chặt lấy tôi và nói trong nước mắt:

- Thôi đã lỡ rồi. Ngày mai anh cứ đi đi. Ở nhà em sẽ chờ anh. Trăm năm em cũng đợi. Ngàn năm em vẫn chờ. Nhỡ mai kia anh về có đui què, mẻ sứt gì em cũng không bỏ anh...

Nghe Trinh nói vậy, tôi xúc động đến ứa nước mắt. Mãi tới khuya chúng tôi mới rời được nhau, khi xe Trinh đã phóng vút đi, tôi vào nhà thấy má đang loay hoay cắm cành hoa mai vào bình. Mùi hoa ngào ngạt đến bâng khuâng, cành mai vàng rực rỡ dưới ánh điện. Năm nay mai nở sớm thật. "Mai nhà ai cho thế hay má mua?" Tôi bỡ ngỡ hỏi. Má tôi ngạc nhiên:

- Vậy ra mày chưa gặp nó à. Bông của nó đem tới đó. Con Mai bảo mày rất thích loại bông này. Ít nữa nó sẽ trồng cho một gốc trước ngõ nhà mình. Má bảo mày ở sau vườn. Nó chạy ra ngoài ấy lâu lắm mà...

Ra thế. Mai đã ra tìm tôi sau vườn và đã chứng kiến cuộc chia tay của tôi với Trinh. Mai đã lặng lẽ ra về. Đúng tính cách của Mai nhường nhịn, không xen vào hạnh phúc của người khác. Hôm sau, tôi ra đi mang theo nhiều kỷ niệm của cả hai người bạn gái.

Cuộc chiến đấu của chúng tôi ở vùng Phai Lin rất quyết liệt để bảo vệ mỏ ngọc quý của nhân dân Kămpuchia. Nhiều bạn tôi đã ngã xuống. Trong một trận đẩy lùi cuộc tấn công của địch, tôi bị đạn pháo gẫy một chân, hai tay bị dập nát và mù một mắt. Suốt thời gian ở mặt trận, thỉnh thoảng tôi nhận được thư của Trinh. Hoàn cảnh ở xa Tổ quốc, thông tin chậm chạp khó khăn. Những lá thư Trinh đã làm tôi mãn nguyện.

Thư Trinh viết rất dài, kể nhiều chuyện đổi mới ở quê hương và nhắc lại những lời đêm chia tay, mong ngóng ngày tôi trở về. Bạn bè trong tiểu đội rất quý những bức thư đó và họ đọc đến thuộc lòng. Có người còn làm cả thơ ca ngợi, mối tình thủy chung Trinh dành cho tôi. Có điều tôi rất ngạc nhiên là Trinh làm Hải sản, Hải quan hay buôn bán gì đó mà giàu có rất nhanh. Nghe nói em đã xây nhà lầu và mua sẵn để dành cho tôi một chiếc "Đơ-rim" láng cóng. Chuyện tôi bị thương bạn bè giấu mãi rồi cũng lộ. Tin đó đã đến tai Trinh và Mai. Trinh đã gửi ngay cho tôi một lá thư dài mười tám trang, vừa trách móc vừa xót đau khi biết tôi mất một mắt và gãy nát chân tay. Em vẫn hứa như đêm chia tay là dù có sao cũng vẫn đợi chờ... Còn Mai - theo thư má tôi kể: Khi biết tin tôi bị thương, Mai đến ôm má và báo tin: "Con đã tình nguyện xin đi chiến đấu ở Kămpuchia. Qua bên đó con sẽ di tìm để chăm sóc anh Thiện".

Thành thương binh nặng, tôi được chuyển về nước. Một năm sau, vết thương ổn định, tôi được vào trại thương binh an dưỡng. Mặc dầu vượt qua được què quặt nhưng hai tay tôi cong quèo, dị dạng. Còn mắt thì hõm vào, sâu hoắm, bước đi phải nhờ đôi nạng gỗ. Ở trại, tôi được chế độ ưu đãi có người nuôi riêng. Nhưng tôi muốn về nhà với má nên gắng sức luyện tập. Khi chân tay đỡ lóng ngóng, tôi lao vào học nghề thợ mộc. Tôi nghỉ phải học lấy một nghề để kiếm sống rồi xin về, vừa đỡ cho nhà nước khỏi phải nuôi, lại còn giúp đỡ được mẹ già. Còn chuyện yêu đương lãng mạn của tôi thì đã lùi vào quá khứ. Trinh đã hốt hoảng khi gặp lại tôi ở bệnh viện và sau đó em lãng dần. Nghe đâu sau lần ấy không lâu Trinh đã cặp bồ với một anh chàng "xuất nhập" gì đó và hiện đang ở nước ngoài với chồng. Tôi đã nghĩ đến Mai, nhưng em ở Kămpuchia chưa về. Mà có được gặp Mai thì cũng chỉ là bạn. Tôi chẳng mong đợi gì khi nghĩ đến hoàn cảnh tàn phế của mình.

Thời gian vùn vụt trôi qua. Một năm sau tôi đã trở thành thợ mộc thực thu. Cả trại thương binh đón má tôi lên, mừng cho bà cụ và liên hoan tiễn tôi về với gia đình. Tôi nhớ buổi sáng ba mươi Tết năm ấy, khi ngồi với má trên xích lô trở về xóm làng quê tôi. Ngược chiều xe tôi là một rừng mai biết đi kìn kìn ra chợ hoa ngày Tết. Tôi nói với má: "Nhà mình cũng phải cố mua một nhành mai". Má cười: "Ừ. Mua. Nhưng phải chờ đến mười giờ đêm nay ra mua, mới rẻ"...

Suốt cả buổi sáng bà con lối xóm đến thăm. Ai cũng thương, cũng quý và ái ngại cho tôi. Nghe họ thì thầm với nhau: "Hòn đạn mũi tên ác độc quá! Thằng Thiện con bác Hai trước kia đẹp trai là thế mà bây giờ...". "Con bồ giàu thế cũng bỏ chạy mất tiêu rồi..."

Thật tan nát ruột gan... Xế chiều, buồn quá, tôi xách hòm đồ nghề thợ mộc ra trổ tài với má. Nhà có bao nhiêu chân ghế, chân bàn khập khiểng què quặt, tôi đục đẽo, cưa cắt, chắp ghép cho lành lặn hết. Mặt trời sắp lặn, má tôi mua được nếp, gà đem về, bà đứng sững nhìn mớ thành phẩm đồ gỗ ngổn ngang giữa sân, mỉm cười sung sướng:

- Mồ tổ cái thằng! Vậy là bây kiếm được nghề nuôi má rồi đó nghen.

Tôi vô cùng sung sướng với niềm vui bé nhỏ của má. Nhưng ngay lúc đó có một niềm vui lớn hơn ập đến với tôi. Thọat tiên, con Mực vẫy đuôi rồi lao ra đường. Tôi nhìn theo ra ngõ, bỗng tháy một cành mai lớn, nở vàng rực rỡ đang di động trên bờ rào chè tàu nhà tôi. Rồi cành mai trùm kín cả ngõ. Cành mai vụt chạy tới phía tôi với tiếng kêu tha thiết:

- Anh Thiện!...

"Mai"! - Tôi cũng kêu lên. Cái bào rời khỏi tay, tôi chới với nắm được một bàn tay mát rợi, rối rít hỏi:

- Mai! Em về hồi nào? Em từ đâu về?...

Mai bật khóc. Khóc như trẻ con. Tôi đứng ngây người ra đấy chẳng biết phải làm gì nữa. Má tôi đỡ lấy cành mai, bà cũng sụt sùi:

- Vào nhà đã, các con!...

Chuyện tình của chúng tôi chỉ đơn giản có thế. Hiện nay Kim Mai làm thợ dệt. Còn tôi thợ mộc. Chúng tôi đã có hai con. Cháu trai tên Ngọc Quý. Cháu gái là Phai Lin. Anh muốn hỏi giống mai vàng ấy à? Đó là một loài hoa chung thủy với mùa xuân. Bây giờ thì tôi không chỉ ước mơ mua một cành, mà Kim Mai đã trồng hẳn một cây. Từ năm ngoái, trước ngõ nhà tôi cây mai ấy đã nở vàng rực. Nếu anh thích, Tết này mời anh đến chơi vào sáng ba mươi, vợ chồng chúng tôi xin biếu anh một cành đẹp nhất về chưng đón Tết...

T.C.T
(120/02-99)





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÙY MAIKhi mới vào tu học, tôi được giao chăm sóc vườn hoa trước chùa. Tên vườn là Vô Ưu, nghĩa là không phiền não. Vậy mà tôi đã bắt đầu ưu phiền từ đó. Tiết mạnh xuân, thầy tôi cho dựng thêm mấy nếp nhà cỏ men hồ. Đệ tử dạo này đã hơn mười người, phải có chỗ để tĩnh tâm, tụng niệm. Mỗi nếp nhà được đặt một cái tên. Nhà tôi ở ngay bên khóm hoa súng tím, gọi là Lăng Hoa Cốc.

  • DƯƠNG ĐỨC KHÁNHCho đến thời buổi này, cái chợ làng Thanh vẫn đông một khúm lèo tèo dưới tán cây sen cổ thụ vào buổi chiều xế. Vẫn làng tàng, xập xệ như cái tên gọi xưa nay: Chợ Kệ!. Cái tên chẳng ăn nhập gì đến tên làng, tên đất nhưng nó gắn liền với bản chất xuề xòa, nhân hậu của những lớp người quê bao đời nghèo khó.

  • LINH CHI         Quê Hoàng, một làng quê chiêm trũng miền Trung, đẹp và yên bình. Hoàng rất yêu quê nhà không chỉ bởi vì đó là nơi chôn nhau cắt rốn, mà bởi đó còn là nơi chắp cánh cho những ước mơ hoang tưởng non nớt thuở xa xôi của Hoàng.

  • NGUYÊN QUÂNNhững buổi chiều nắng ráo, gã thường ra ngồi ở đây, dọc theo hai triền sông, nở đầy những bông hoa dại - loài hoa vươn dài, xòe những chiếc lông màu tím như cái đuôi chồn. Trong bóng chiều dần dần ngả màu tối, gã vẫn ngồi ngắt từng cánh... từng cánh hoa ném xuống dòng sông.

  • VĂN ANMặt trời đã khuất sau rặng núi xa xa, bầu trời chỉ còn sót lại những vệt sáng yếu ớt như những chiếc nan quạt hắt lên từ phía chân trời.

  • NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ anh hay, rất nổi tiếng, nhiều người ái mộ.Năm 1975, anh cùng đoàn quân chiến thắng tiến vào giải phóng Sài Gòn, trụ lại thành phố làm đại diện một tờ báo, chốt trực cơ quan. Ở rừng lâu, nằm lán, ngủ võng cũng quen, nay về phố thị, căn hộ hai ba phòng, tự nhiên thấy trống trải, trằn trọc. Hoà bình rồi, cần ổn định cuộc sống, việc đầu tiên là đón mẹ con nó vào.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNấn ná mãi tôi mới quyết định đi thăm Hiền. Quãng đường hơn trăm cây số, vượt qua đèo Cả không có gì đáng ngại. Chỉ hơn ba giờ đồng hồ ngồi xe đò và hơn một giờ nữa trên chếc xe ngựa của ông Sáu cụt chân là tôi đã có thể tới làng Vĩnh Hiệp Nam, về ghềnh Đá Đỏ. Nhà cô giáo Hiền ở đó.

  • LÊ MAICơn mưa chiều sầm sập kéo tới, mưa đổ bì bộp xuống mái nhà; hạt mưa nặng đến nỗi Hoàng tưởng như những tấm tôn phải oằn rướn lên chống đỡ; nước từ các máng xối tuôn ra ào ạt kéo theo hàng đụn lá khô, cỏ rác tràn đầy cống ngoài đường. Mới có năm giờ chiều mà như tám giờ tối.

  • HƯỚNG DƯƠNGTruyện ngắnMùa đông năm ấy tôi phải đi công tác tại một thành phố nhỏ ven biển. Khách sạn tôi trú chân nằm trên một ngọn đồi, nó không sang trọng, bề thế như nhiều khách sạn khác. Nhưng bù lại, nó hướng mặt về phía đại dương. Địa điểm này thật sự lý tưởng cho khách du lịch vào mùa hè, còn mùa đông thì chỉ có những người đặc biệt hay những công việc đặc biệt người ta mới tìm đến đây nghỉ lại. Một người bạn thân đã cho tôi địa chỉ của nó. Tôi khá hài lòng nếu như bạn hàng của tôi không bắt tôi chờ bão tan rồi mới đáp máy bay đến ký hợp đồng.

  • TRẦN HẠ THÁP(thân tặng Ng.X.Hoàng)

  • TRẦN HẠ THÁP    (tiếp theo)

  • VÕ THỊ ÁNH HỒNGTôi vừa chạy vừa gọi chị trong tiếng sóng rì rào và tiếng lao xao của dãy phi lao. Như không nghe thấy tiếng tôi, chị vẫn thẫn thờ nhìn về xa xăm, chờ đợi...

  • PHẠM NGỌC TÚYĐó là một cặp vợ chồng trông rất đẹp đôi và hạnh phúc. Chàng cao lớn, mặt vuông. Nàng mảnh khảnh, xinh xắn. Khi lấy nhau, họ ở nhà tập thể của cơ quan. Sau khi cơ quan dời đi chỗ khác, người được phân đất, kẻ được chia nhà, lần lượt dọn đi. Chỉ trừ chàng. Chàng vì cô mà ở lại.

  • PHẠM XUÂN PHỤNGXưa có một người nông dân chất phác cần cù, nhà ở gần bìa rừng, làm lụng đầu tắt mặt tối bao năm mới dựng được ngôi nhà tranh ba gian hai chái. Trước nhà có cái sân rộng dùng để phơi lạc, loại nông sản chuyên canh của dân trong vùng. Hai vợ chồng có mỗi mụn con trai nên thường chăm bẵm, những mong sau này có được dâu hiền, phúc nhà đến độ, may chăng cháu chắt đầy nhà là mãn nguyện.

  • NGUYỄN NGỌC LỢICây mai dáng trực đặt nơi khoảng sân lát gạch đỏ của toà nhà ấy đã làm xôn xao cả phố. Gốc cây mai to gộc, u bạnh của nó bám đầy địa y mốc xanh mốc trắng.

  • TRẦN THÙY MAIThấp thoáng trong văn Trần Thùy Mai là sự phô phang hình hài của linh tự. Những linh tự tủi buồn bởi hết thảy chúng đều được hoài thai từ “độ chênh” của những mối tình khó lần ra hồi kết. Điều đó khiến mỗi truyện ngắn của Mai như là một miếng hồng trần nhỏ nhắn - chị lặng lẽ vấy vá bằng sợi tầm ma trước mỗi rạng đông...

  • QUẾ HƯƠNGTôi băng qua đường để lên cầu Trường Tiền. Thằng Tí kéo tay tôi lại: “Cậu qua đường mần chi, xe cán chừ!”. Tôi cứ qua. Đám trẻ con đang chơi ở công viên trước mặt ném đá vào tôi. Tôi chạy lên cầu. Đám trẻ réo: “Ông điên! Ông điên!”. Tí chạy theo, vừa thở, vừa nắm tay tôi: “Ai bảo cậu qua bên ni, dắt cậu thiệt mệt!”.

  • NGUYỄN NGUYÊN PHƯỚC Vào một buổi tối mùa thu, Đinh Hoài Viễn, một nhà văn trẻ tuổi, một người hoàn toàn vô danh trong văn giới, trong khi bóc phong thư mới nhận được vào buổi sáng ngày hôm đó, đã phát hiện ra ở mặt sau cái phong bì rỗng ấy một văn bản kỳ lạ trong hình thức của một truyện ngắn không đề tên tác giả.

  • ĐỖ KIM CUÔNGQuán cà phê cây sứ của vợ chồng Tư Hiền nằm ngay mặt tiền con đường nhỏ dẫn ra biển. Quán không trang hoàng đèn xanh đèn đỏ, không quầy két, không người chạy bàn, chỉ dăm ba bộ bàn ghế nhựa rẻ tiền.