Ma - một hình tượng văn học

15:37 14/10/2013

LTS: Phạm Phú Uyên Châu, bút danh Meggie Phạm, sinh năm 1991, hội viên trẻ nhất của Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, tác giả của bộ truyện dài liên hoàn do Nxb. Trẻ ấn hành: Hoàng tử và em (2011, tái bản 2011), Giám đốc và em (2011, tái bản 2012), Chàng và em (2012, tái bản 2012), Người xa lạ và em (2012) và Tôi và em (đang in).

"Hồn ma Đạm Tiên luôn theo sát cuộc đời của Kiều" - Ảnh: Tranh lụa của Trương Đình Quế (Kiều mơ Đạm Tiên)

Cô vừa tốt nghiệp loại xuất sắc ngành Văn học (khóa 33 khoa Ngữ văn, Đại học Khoa học Huế). Tại Hội thảo khoa học Yếu tố kỳ ảo, huyền thoại trong văn học cuối tháng 5/2013 do khoa Ngữ văn Trường Đại học Khoa học Huế tổ chức, có sự góp mặt của gần 60 nhà khoa học trong cả nước tham gia, Phạm Phú Uyên Châu là sinh viên duy nhất có báo cáo tham luận. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.


PHẠM PHÚ UYÊN CHÂU

Ma - một hình tượng văn học

1.

Hình tượng được tạo nên bằng tư duy trừu tượng, là cái mà người ta có thể tưởng tượng ra, hình dung ra, đằng sau lớp vỏ ngữ âm vật chất của ngôn từ. Vì vậy, cái gì xuất hiện trong tâm tưởng, trong ý nghĩ, con người có thể tưởng tượng ra được, hình dung ra được, đều có thể trở thành hình tượng nghệ thuật, trong đó có ma. Thế giới nghệ thuật của tác phẩm ngôn từ là thế giới thứ hai, bao giờ cũng có điểm trùng khớp và khả năng mở rộng hơn thế giới thứ nhất là thế giới của thực tại. Ma là kết quả của tư duy trừu tượng mở rộng vượt lên thực tại của con người, tung hoành trong vùng đất thứ hai mạnh mẽ hơn và yếu ớt hơn, rực rỡ và mờ nhạt hơn nhờ tính kỳ ảo của nó.

Ma có nghĩa là linh hồn bất tử, xuất phát từ tiếng La tinh là anima, là “phi vật chất và bất tử, chịu trách nhiệm trước Thượng đế và những hành vi của con người khi sống tạm thời trên mặt đất” [4, tr.18]. Ma tồn tại hay không tồn tại trong cuộc sống? Điều này về mặt khoa học rõ ràng sẽ được phủ nhận, nhưng lại nằm trong phần chưa thể lý giải thuyết phục được của khoa học. Ma vẫn tồn tại trong nghệ thuật nói chung, trong văn học nói riêng. Khi đã đi vào tác phẩm ngôn từ, được xây dựng dưới ý tứ của nhà nghệ sĩ, thì ma không còn là sự thực hay bịa đặt, mà chỉ có sự tồn tại với tư cách là một hình tượng nghệ thuật, mang trong mình một quan niệm về nghệ thuật, về cuộc sống. Thực tế trong văn học từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây, sự tồn tại của các nhân vật thần linh ma quỷ có ở bất kỳ quốc gia nào, tùy thuộc vào quan niệm mà những nhân vật ấy không chỉ mang đầy đủ những đặc tính, phẩm chất của con người, mà còn vượt xa hơn, cao hơn cái mà con người không thể làm và cũng không thể giải thích được. Là kết quả của trí tưởng tượng, phụ thuộc vào logic huyền thoại, khả năng của những nhân vật siêu tự nhiên ấy là vô hạn cũng như chính trí tưởng tượng. Chính những yếu tố kỳ ảo, mơ hồ ấy đã mang đầy đủ phẩm chất, đặc tính của nghệ thuật.

Cuộc sống thực hội tụ vào nghệ thuật qua một lăng kính đầy xúc cảm mờ ảo, lung linh, đẹp hơn, cao siêu hơn. Bởi vậy mà sự cách điệu trong nghệ thuật là một trong những yếu tố quyết định cho sự thăng hoa nghệ thuật, và cũng từ đó, tạo ra những hiệu ứng thẩm mỹ để trở lại làm đẹp thêm cho cuộc sống và sâu thẳm thêm tâm hồn con người. Không có thế giới trừu tượng, không có cõi tâm hồn con người từng được Platon phát hiện ra, thì sẽ không có trí tưởng tượng của con người, không có sự sống và dĩ nhiên không có nghệ thuật. Trí tưởng tượng không chỉ làm đẹp thêm, giàu thêm cho cuộc sống, mà còn giúp con người liên tưởng, hình dung và tạo lập một thế giới thứ hai siêu phàm, đôi khi rùng rợn và thú vị hơn, với logic co dãn hơn thế giới thực tại của con người. Là sự giải thích cái lạ bằng cái thần diệu, ma là hạt nhân, là sự tồn tại rõ ràng nhất của cái kỳ ảo. Ma tham gia vào đời sống và tồn tại trong tâm tưởng, luôn mang những phẩm chất của con người, cũng có những tình cảm yêu ghét như con người. Hồn ma đức vua là sự tồn tại sau cái chết, kêu gọi sự trả thù và công lý trong Hamlet. Hồn ma này có giới tính, tuổi tác, quá khứ, có sự rên xiết và đầy thù hận. Hồn ma đã đặt trách nhiệm lên người sống, hồn ma là cái chết không chịu siêu sinh, mà tiếp tục uất ức vì oan giải. Con người nhỏ bé, hèn kém, sợ hãi nên luôn mang trong mình niềm hy vọng, một sự gởi gắm chờ đợi nào đó nơi mơ hồ, ảo ảnh. Một khả năng sau cái chết, một sự điều khiển đối với thiên nhiên, một tiếng nói từ cõi vô hình. Chính vì vậy, quan niệm có ma cũng là một phép thắng lợi tinh thần, nhằm đáp ứng nhu cầu khát vọng chiếm lĩnh cuộc sống mà trong thực tại con người không thực hiện được. Khi gặp trở ngại, vấp váp trong cuộc sống hàng ngày, con người chạy trốn vào vùng đất mênh mông của trí tưởng tượng, nơi có loài “sinh vật” kỳ lạ vượt qua khả năng hữu hạn của con người. Do vậy, ma chỉ là một quan niệm, một sự mơ hồ, được hình thành từ trí tưởng tượng của con người và tồn tại cùng với sự tồn tại của con người. Và, khi đã đi vào văn học, ma phủ bóng lung linh xuyên suốt mọi thời đại, mọi thể tài văn học từ dân gian đến hiện đại và dường như sức sống của những hình tượng điển hình là những hồn ma cũng không thua kém những hình tượng là con người. Nhà thơ Pháp Paul Valéry cho rằng: “Có tác phẩm nào vững bền hơn những sác tác văn chương kỳ ảo? Cái giả và cái thần kỳ lại còn giàu nhân tính hơn những con người hiện thực.” [6, tr.145].

Khả năng của nhân vật ma là vô hạn, thế nhưng đồng thời cũng áp chế bằng một logic của thế giới ảo. Tại sao hồn ma đức vua siêu nhiên như thế lại không tự trả thù cho mình? Không, hồn ma phải phó thác cho người sống. Bởi vì nguyên tắc của hồn ma là không thể bước qua ranh giới của hiện thực. Cũng như ma trong Liêu trai chí dị, muôn hình muôn vẻ, đầy tình cảm và sắc thái, nhưng cũng phụ thuộc vào một quy luật nhất định của cõi sinh tử - không thể đến quá gần người sống mà không gây tổn hại. Đó chính là cái hay, cái hấp dẫn hơn cả của hình tượng ma với con người. Những nhân vật vừa mạnh mẽ mà vẫn có giới hạn, là con người ở một dạng thức tồn tại cao siêu hơn. Trong đời sống thực tại, con người có thể mơ hồ hỏi có ma hay không, có thể chọn giữa tin tưởng hay không tin tưởng, nhưng trong tác phẩm văn học thì sự tồn tại của ma là không phải giải thích. Năm thế kỷ nay từ lúc Hamlet ra đời, không thiếu những tư duy khoa học đã mày mò nghiên cứu tác phẩm ấy, nhưng không ai đem sự tồn tại liệu có khả lý của hình tượng hồn ma đức vua ra suy xét. Ma đôi khi là một thủ pháp nghệ thuật, là niềm tin tất nhiên vào cái vô lý, cái vô cùng. Ma trong văn chương là cái ta nửa tin nửa ngờ, nhưng không có quyền phản đối, ngược lại, còn say mê theo đuổi. Hình tượng ma mạnh hơn khi nó là đại diện chuẩn mực nhất của cái kỳ ảo, nó là điểm bắt tay của những điều vốn không thể dung hòa được như lý trí và mơ mộng, giữa tin tưởng và nghi ngờ, giữa lý tưởng không khoan thứ và sự mơ hồ giả dối. Nó bước đi trên cái trụ thực - ảo vốn là xương sống của cái kỳ ảo, tồn tại của nó là bằng chứng cho sự yếu đuối nhất thời trong tư duy nhân loại từ thời cổ xưa, nhưng đồng thời khẳng định sức mạnh tư duy và khả năng sáng tạo mạnh mẽ vô hạn của con người.

2.

Hình tượng nghệ thuật ma trong văn học dân gian, gắn liền với các đặc trưng cơ bản của loại hình này như tính nguyên hợp, tính đa chức năng, tính tập thể và truyền miệng… Bởi lẽ những đặc trưng này toát ra những nét riêng biệt về phương thức xây dựng tư duy hình tượng, đồng thời thể hiện tư duy, nhận thức của tác giả dân gian. Sự biến hóa kỳ ảo của nhân vật không chỉ dừng lại trên bình diện phản ý thức, tư duy của trí tuệ bình dân mà còn vượt xa hơn, nâng lên tầm khái quát của nghệ thuật có tính logic và hình tượng. Với thể tài thần thoại, toàn bộ những huyễn tưởng, hoang đường về những vị thần, con người và ma quỷ cùng với loài vật mang tính thần kỳ siêu nhiên do con người hình dung ra để lý giải các hiện tượng trong tự nhiên, xã hội theo quan niệm vạn vật hữu linh. Con người đã logic hóa và hệ thống cả một thế giới đồ sộ chỉ bằng tưởng tượng của mình, xây dựng lại thế giới theo cách ta muốn có. Với sử thi, mạch phát triển chuyện kể theo phương thức tự sự ở một quy mô lớn, gắn liền với lịch sử hình thành phát triển mỗi dân tộc, từ Iliade, Odysseus của Hy Lạp, Ramayana, Mahabharata của Ấn Độ… huyền thoại đã thấm vào máu xương của lịch sử, dung hòa và nâng tầm lịch sử - kết quả chiến đấu của cả dân tộc - lên một tầm huy hoàng vượt lên cái siêu nhiên.

Nhưng đó chưa phải đỉnh cao của trí tưởng tượng, mà khi hình tượng ma được sáng tạo và hoàn thiện, cái bóng mờ đi bên cuộc sống này mới làm giàu cuộc sống bằng sự tích cực không ngờ. Trong văn học dân gian, hình tượng ma xuất hiện nhiều nhất và đặc sắc nhất là ở cổ tích. Ma lúc này không chỉ đơn thuần là ý thức nhằm cắt nghĩa những điều không giải thích được hoặc mang tính quan niệm, tín ngưỡng mà còn mang yếu tố tích cực trong việc thể hiện chủ đề tư tưởng cũng như là yếu tố kỹ thuật để dựng truyện. Chính từ quan niệm có hai phần xác và hồn, nguồn gốc của sự tồn tại nhân vật ma là ở nơi tách rời năng lực tư duy và tâm hồn với thân thể xác thịt. Từ sự tách rời ấy mà tạo nên một motif phổ biến về hóa kiếp, đầu thai. Người tốt chết có thể hóa kiếp, kẻ xấu thì thể xác bị hủy hoại nhưng linh hồn phải vất vưởng, phải chịu tiếp tục trừng phạt trong địa ngục. Đó là lời răn dạy đối với hành vi của con người khi còn đang sống. Ma có thể tốt, có thể xấu, xinh đẹp hoặc hung dữ về ngoại hình, nhưng cái chính là nó thể hiện một quan niệm, một ý tưởng thậm chí là thể hiện cả nội dung của truyện. Ma không có thể xác, là sức mạnh nhưng thiếu vắng thể xác. Ma đồng thời lại là tiếng nói trí lực không cần thể xác, là sức mạnh hoàn toàn tinh thần, vô hình và mạnh mẽ. Bởi vậy ma luôn đóng những vai trò chốt nhất định trong những câu chuyện dân gian, gánh lãnh trách nhiệm hành động bằng khả năng phi thường của nó, những điều không thuộc về thể xác thông thường - cái mà con người cũng có thể thực hiện - mà là tiếng nói phi thường. Hồn ma người mẹ trở về báo mộng cho con, hồn ma lang thang bên ngoài gặp người hiền đức nên phù hộ, hồn ma chướng mắt những việc làm của kẻ ác trái với luân thường nên phá hoại,… Ở những dân tộc khác nhau, truyện cổ tích chịu ảnh hưởng của nhiều quan niệm tôn giáo khác nhau, nhưng nhìn chung nó đã xây dựng những hình tượng về ma khá đa dạng và mang những nét nghệ thuật độc đáo. Trong dòng chảy của nền văn học dân gian nhân loại, các thể loại có một khái niệm, một cách nhìn nhận, đánh giá về cuộc sống để cuối cùng tạo nên những hiệu ứng thẩm mỹ nhằm chiếm lĩnh đời sống tâm hồn con người.

3.

Nếu như hình tượng ma trong văn học dân gian nặng về tính hiện thực hơn tính nghệ thuật, thì trong văn học viết, tính nghệ thuật hoàn toàn lấn át tính hiện thực. Cũng như mấu chốt của văn học kỳ ảo là cái kỹ thuật khiến con người ta hồ nghi, giữa lý trí duy vật và nỗi sợ hãi duy tâm, mà tồn tại giữa duy lý và duy cảm. Nó không chỉ dừng lại ở các motif có tính chất kỹ thuật, mà biến hóa khôn lường theo quyền năng của sáng tạo. Tác giả dân gian tưởng tượng nhưng đồng thời cũng hoàn toàn tin tưởng vào sự tồn tại siêu nhiên. Nhưng tác giả văn học viết thì không có yêu cầu tin tưởng, mà ma là một cách đánh lạc hướng khỏi thực tại vô cùng hữu ích, gây nghi ngờ nhưng lại không cho phép độc giả phủ định. Nếu trong văn học dân gian, hình tượng ma thiên về nội dung, thì trong văn học viết hình tượng ma lại là một thủ pháp nghệ thuật thu hút sự quan tâm của nhiều tác giả. Trong Đoạn trường tân thanh, hồn ma Đạm Tiên luôn theo sát cuộc đời của Kiều, làm “kẻ nhắc tuồng hoặc là phụ diễn, thường xuất hiện nơi công hậu[2, tr.36], là kẻ nắm giữ số phận và dự báo “Số còn nặng nợ má đào/ Người dù muốn thác trời nào đã cho”.

Ma là một hình tượng nhân vật phổ biến trong văn học từ thời cổ đại. Càng phát triển, nhân loại càng tin vào tư duy duy lý, phủ định các yếu tố siêu nhiên thần thánh, nhưng lại không thể phủ nhận ma trong văn học, mà ma còn tiến hóa, ngày càng mạnh mẽ trong văn học, trở thành cái không thể nắm bắt, con người không thể hiểu nổi lý lẽ, ma trở thành cái kỳ ảo khôn cùng của thực tại câu chữ. Từ Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ,… đến Trăm năm cô đơn của G.G. Marquez, Con ma của G.Boccacio, Người đi xuyên tường của Marcel Aymé…, ma càng ngày càng phát triển trong tư duy nghệ thuật của nhân loại. Bóng ma trong trang sách làm giàu cho tác phẩm nghệ thuật. Lấy ví dụ bằng truyện kinh dị của Edgar Poe, cây bút tài năng đã với những đóng góp to lớn trong văn học hiện đại, đặc biệt là hai mảng truyện kinh dị, kỳ ảo và truyện trinh thám. Có lẽ chính sự hòa quyện giữa hai mảng truyện này khiến Poe được Baudelaire nhận định: “Không một ai có sức mê hoặc đến như vậy về những ngoại lệ của cuộc sống con người và tự nhiên.” [8, tr.61] Con mèo đen trong tác phẩm của Poe là một con ma động vật, bị giết chết một cách tàn bạo, nhưng nó cũng bị hủy hoại thể xác chứ không thể hoàn toàn bị tiêu diệt về mặt linh hồn. Con mèo trở thành bóng ma, thành nhân vật theo đuổi suốt cuộc đời kẻ giết nó - nhân vật kể chuyện, không chỉ ám ảnh mà còn có sức mạnh đến mức đưa đẩy kẻ thù đến bước đường giết vợ, trở thành kẻ sát nhân. Kẻ thủ ác cho dù đã giấu giếm thế nào cuối cùng cũng bại lộ, bức tường xây nên để giấu xác cuối cùng cũng bị công lý tìm thấy, bóng ma đã hoàn thành cuộc trả thù dữ dội của nó. Poe không viết nhiều về nhân vật ma, chỉ tiêu biểu ở hai tác phẩm Con mèo đen Kỷ niệm của Ô.Bedloe, bởi ông thường tìm ra cách giải đáp lý tính cho những điều thần diệu trong tác phẩm của mình vào phút cuối, bằng một logic nghiêm ngặt đến ngạc nhiên. Thế nhưng người đọc đã có thể hồ nghi sự tồn tại của ma mà đón nhận tác phẩm, cũng có thể đón nhận xong tác phẩm thì hồ nghi tính lý trí - vì quá lạ đến phi thường - của tác giả mà mong chờ ở cái ma diệu thần bí. Poe đã thiết lập kỹ thuật cho không ít nhà văn kỳ ảo noi theo, cũng mở lối cho một nhánh truyện ma trong văn học hiện đại phát triển.

4.

Ma trở thành kỹ thuật thể hiện tài năng, thành thử thách cho lý tính và nghi ngờ của tác giả và độc giả, trong một cuộc thách đố đầy rẫy yếu tố lạ thường và huyễn tưởng. Trong văn học Việt Nam từ buổi mở màn cho văn học hiện đại đã có Nguyễn Tuân với Yêu ngôn, Vang bóng một thời, có Thế Lữ với Vàng và Máu, Trại Bồ Tùng Linh, Đêm trăng, có Khái Hưng với Hồn bướm mơ tiên, có Nhất Linh với Bướm trắng, Bóng người thiên thu… Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn “vang bóng một thời” mà sự nghiệp của ông được vinh danh cũng phần nào góp bằng hình tượng ma, khi viết về cái thời của những anh khóa văn hay chữ tốt nhưng không được đỗ đậu, ôm tài tiếc hận thành bóng ma giữa trường thi (Bóng ma cuối cùng), cái thời mà sơn thần Tản Viên thường xuống trần gọi thợ lên sửa đền trên đỉnh Ba Vì (Trên đỉnh non Tản), cái thời của các lò giấy làng Hồ Khẩu bên bờ hồ Tây chuyên chế loại giấy Ngự, thấm đẫm những âm linh vất vưởng mơ hồ… Tất cả hồn ma đều mang vóc dáng ma tài tử, ma tài hoa, ma rất Nguyễn Tuân. “Ấy là những kẻ suốt đời săn tìm cái đẹp, có thể bỏ cả hàng đống tiền để cầu lấy một bức tranh cổ cũ nát, thậm chí tiêu cả cơ nghiệp vào tiếng đàn giọng hát. Lúc ở dương gian đã thế, khi chết đi, hồn phách vẫn không chịu rời bỏ chốn thanh lâu, đêm vẫn đánh trống chầu trên những mái nhà nơi hàng viện.” [7, tr.9] Người như Nguyễn Tuân, nếu có đau khổ thì cũng chỉ đắm đuối trong bể tình, dù cho ông là kẻ phàm trần như cậu ấm Dái trong Dới roi hay người thần, người tiên như cô Đó trong Xác ngọc lam… Sau năm 1945, Chùa Đàn của Nguyễn Tuân vừa có tính chất ma quái, lại vừa giàu tính hiện thực phản ánh thời đại con người còn có cảm giác trầm mình trong thế giới hồng hoang, hỗn mang. Truyện của ông là một thức yêu ngôn (tên mà Nxb. Hội Nhà văn đặt cho tập truyện ngắn được sưu tầm của Nguyễn Tuân, gồm có tám truyện mà nhân vật trung tâm là ma, xuất bản năm 1999), một tạng ngẫm tưởng viết bằng ngòi bút tư duy và tư hướng đậm đà hương vị dân tộc, quốc hồn quốc túy, được chắt ra từ tâm huyết của nhà văn.

Với văn xuôi Thế Lữ, ta bắt gặp một giọng văn hiện đại trong không khí dựng truyện và miêu tả cái chết, vừa huyền ảo chen lẫn với ảo mộng, lại vừa phản ánh tâm trạng cuộc sống thực của con người còn tươi nguyên như thể xảy ra ngay cạnh vách, “Cái bóng đàn bà thoáng hiện lần đầu, lại hiện ra lần thứ hai, trong đêm vừa qua, cùng một trường hợp giống nhau, nghĩa là lúc anh đang làm việc mải miết. Thốt nhiên một cảm tưởng lạ ám đến, anh trờn trợn như mình có người chú ý, ngửng đầu lên… Tuấn chưa hết kinh ngạc thì người ấy đã lui ngay. Không một dấu vết khác lạ. Người đàn bà đẹp như đã tan vào trong đêm.” Người đàn bà trong Trại Bồ Tùng Linh ấy có thực hay là ảo giác của sự lao động miệt mài, nó giống như câu hỏi ma có thực hay không, dần dần dắt con người lý trí và khoa học vào thế giới của những điều thần bí. Cũng như Romuald trong Người chết si tình của Théophile Gautier: “Một chiều, trong khi dạo chơi trong cái lối đi viền bằng cây hoàng dương, hình như tôi nhìn thấy sau lùm cây hình thù một người đàn bà” [8, tr.66], đôi khi anh ta tưởng thấy chân người động đậy, đôi khi lại chẳng thấy gì, anh ta thấy người con gái mình yêu chết đi lại sống lại, “không rõ đó là một ảo giác hay một hồi quang của cây đèn nhưng ta có thể nói máu lại bắt đầu lưu thông dưới sự nhợt nhạt xạm màu kia.” [8, tr.66] Có sự can thiệp của quỷ dữ, cũng có thể cũng chỉ là chuyện ngẫu nhiên, là ảo giác chứ không chắc là ma quỷ. Hình tượng ma được xây dựng trong cái kỳ ảo thuần túy sẽ ủng hộ cho con người mơ màng, mặc sức tưởng, tùy tin hay không. Nhiều tác giả, tác phẩm văn xuôi tiêu biểu những năm gần đây, đã sử dụng yếu tố kỳ ảo, gây dựng hình tượng ma trở thành mấu chốt, linh hồn của thế giới nghệ thuật đặc sắc, có sức lay động đến khoảng sâu thẳm trong tâm hồn người đọc như Nguyễn Minh Châu với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, Cỏ lau, Nguyễn Huy Thiệp với Giọt máu Những ngọn gió Hua tát, Nguyễn Khắc Trường với Mảnh đất lắm người nhiều ma,… Các tác giả sau này cũng sử dụng ma như thủ pháp nghệ thuật, như chìa khóa diệu kỳ dẫn con người vượt qua cánh cửa giới hạn trong những tác phẩm như Đêm bướm ma, Cõi người rung chuông tận thế, Bóng đè

5.

Chủ nghĩa hiện thực không đòi hỏi tính xác thực mà chỉ đòi hỏi tính chân thực, không đòi hỏi những phẩm chất của chủ nghĩa thực nghiệm mà đòi hỏi sự lý giải hiện thực - cả đời sống và tâm trạng - như nó vốn có. Người không thể mọc đuôi (Cái đuôi), không thể tự nhiên dài ra (Anh hề), không thể đi xuyên qua bức tường vật chất (Người đi xuyên tường) hay ngủ một đêm, sáng ra thấy mình đã biến đổi thành một sinh vật khác, không còn là người (Hóa thân)… tất cả những yếu tố hiện thực phải đạt sự tuyệt đối đến mức nào đó, sẽ nảy sinh siêu thực. Cái hiện thực được thể hiện ngay trong cái phi hiện thưc, khi cái hợp lý thể hiện ngay trong các yếu tố phi lý đó. Con mèo chết có quyền báo thù, nó phải dùng ý niệm báo thù mà tồn tại, trở thành ma (Con mèo đen). Người kỹ nữ đã chết không thể mang người tình đến Venise để tiếp tục sống trong sự tráng lệ của những lễ hội không ngừng, hút máu anh ta hàng đêm (Người chết si tình). Thế nhưng, nó thể hiện ý chí và hy vọng của con người, không phải vào huyễn tưởng mà là trong thực tại. Hình tượng có khả năng siêu phẩm chỉ để thể hiện ý tưởng tự do vượt thoát thực tại mà chính ta đang sống. Ngô Tự Lập trong Lời tựa cho bộ sách Truyện kì ảo thế giới cho rằng: “Truyện kỳ ảo đưa ra những sự kiện không thể giải thích nổi bằng những quy luật thông thường. Đó là một thế giới, nơi cái thực và cái ảo, cái tự nhiên và cái siêu nhiên xâm nhập lẫn nhau.” [3, tr.8].

Thế giới của M.Aymé là thế giới của người mọc đuôi, người đi xuyên tường, người tự dài ra… là thế giới của những nghịch dị, thuộc thế giới thứ hai bao trùm, cao hơn, hoàn lẫn mà cô đọng, thu hẹp thế giới thứ nhất của thực tại, nó chứng minh ý tưởng về chân lý thực sự, đó là trong đời sống con người chẳng có gì là không thể xảy ra. Chính cái phi thường ấy mới là cái bình thường nhất. Vì bản thân khoa học cũng là một điều kỳ diệu, khi con người, bằng tư duy mình, dần khám phá ra thế giới được tạo lập có nền tảng và căn cốt, với cách lý giải huyền nhiệm và rõ ràng của riêng nó.

Có thể dễ dàng nhận ra rằng, hình tượng ma, những hình tượng kỳ ảo có thể xuất hiện trong tất cả các loại hình, loại thể nghệ thuật. Ngay trong các loại hình nghệ thuật không gian có tính tạo hình cụ thể như kiến trúc, hội hoạ, điêu khắc, nhiếp ảnh cũng không thể loại trừ các yếu tố kỳ ảo. Ma là đại diện chuẩn xác nhất, nó vô hình, trừu tượng nhưng thuộc về một thế giới hình tượng sống động và chân thực mà con người dễ dàng hình dung ra được. Đối với văn học, nó tập trung chủ yếu ở các thể loại được thể hiện theo phương thức tự sự, nó gắn liền với giọng điệu trần thuật, kể lại sự kiện khách quan nhưng đã thẩm thấu, đã hóa thân trở thành thế giới tâm hồn của tác giả và sau đó là của độc giả. “Thế giới kỳ ảo”, nhà văn Pháp George Sand cho rằng, “không phải ở ngoài, cũng không phải ở trên, cũng không phải ở dưới, nó ở trong đáy lòng chúng ta, nó lay động đến tất cả, nó là linh hồn của tất cả sự thật, nó hiện diện trong tất cả mọi việc, mỗi nhân vật tự mình mang nó và biểu hiện nó theo cách của mình” [1, tr.117]. Trong những nhân vật kỳ ảo ấy, ma là điều đầu tiên con người ta nhắc đến. Bởi nó là điều băn khoăn của những người lý trí nhất đến những kẻ u mê nhất, nó làm rối trí các nhà hoài nghi chủ nghĩa, làm phân vân lập trường của những người tin tưởng vào khoa học duy lý, nó phủ bóng huyền diệu lên tư duy của con người từ thơ ngây đến già cỗi. Hình tượng của nó lại được giải phóng thỏa đáng nhất trong văn học, không hình hài thành hình khối màu sắc - để chỗ cho trí tưởng tượng phát triển - không mơ hồ vô cớ mà luôn có nguyên do cụ thể, luôn có vị trí và ảnh hưởng sâu sắc đến cả sáng tác và tiếp nhận. Ma có thể là một chấp niệm, có thể là một mơ ước, nhưng hình tượng ma là điều kỳ diệu đối với văn học, nghệ thuật. Bằng sự tồn tại màu nhiệm của nó, dưới ngòi bút kỹ thuật tinh xảo của các nhà văn, hình tượng ma đã làm giàu biết mấy cho lịch sử tâm hồn của nhân loại.

P.P.U.C
(SH296/10-13)


............................................
1. Hà Minh Đức (1999), Những vấn đề lý luận và lịch sử văn học, Viện Văn học xuất bản, Hà Nội.
2. Vũ Hạnh (1974), Đọc lại Truyện Kiều, Nxb. Đà Nẵng.
3. Ngô Tự Lập (1999), Truyện kỳ ảo thế giới, Nxb. Văn học. Hà Nội.
4. Margerite - Marie Thillier (2001), Từ điển tôn giáo, Nxb. Khoa học xã hội, Hà Nội.
5. Hoàng Phê (2001), Từ điển tiếng Việt, Nxb. Đà Nẵng.
6. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb. Đại học quốc gia Hà Nội.
7. Nguyễn Tuân (1999), Yêu ngôn, Nxb. Hội Nhà văn, Hà Nội.
8. Tzevan Todorov, (2008), Dẫn luận về văn chương kỳ ảo, Nxb. Đại học Sư phạm, Hà Nội.








 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN THÁI HỌCCó lẽ chưa bao giờ các vấn đề cơ bản của lý luận văn nghệ lại được đưa lên diễn đàn một cách công khai và dân chủ như khi đất nước bước vào thời kỳ đổi mới. Vấn đề tuyên truyền trong nghệ thuật tuy chưa nêu thành một mục riêng để thảo luận, nhưng ở nhiều bài viết và hội nghị, chúng ta thấy vẫn thường được nhắc tới.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Một câu ngạn ngữ Pháp nói rằng: “Khen đúng là bạn, chê đúng là thầy”. Câu ngạn ngữ này đúng trong mọi trường hợp, và riêng với văn học, Hoài Thanh còn vận thêm rằng: “Khen đúng là bạn của nhà văn, chê đúng là thầy của nhà văn”...

  • BẢO CHI                 (lược thuật)Từ chiều 13 đến chiều 15-8-2003, Hội nghị Lý luận – Phê bình văn học (LL-PBVH) toàn quốc do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức đã diễn ra tại khu nghỉ mát Tam Đảo có độ cao 1.000 mét và nhiệt độ lý tưởng 23oc. Đây là hội nghị nhìn lại công tác LL-PBVH 28 năm qua kể từ ngày đất nước thống nhất và sau 54 năm Hội nghị tranh luận Văn nghệ tại Việt Bắc (1949). Gần 200 nhà LL-PB, nhà văn, nhà thơ, nhà báo và khách mời họp mặt ở đây đã làm nóng lên chút đỉnh không khí ôn hoà của xứ lạnh triền miên...

  • ĐỖ LAI THÚY                Văn là người                                  (Buffon)Cuốn sách thứ hai của phê bình văn học Việt Nam, sau Phê bình và cảo luận (1933) của Thiếu Sơn, thuộc về Trần Thanh Mại (1911 - 1965): Trông dòng sông Vị (1936). Và, mặc dù đứng thứ hai, nhưng cuốn sách lại mở đầu cho một phương pháp phê bình văn học mới: phê bình tiểu sử học.

  • ĐẶNG TIẾNThuật ngữ Thi Học dùng ở đây để biểu đạt những kiến thức, suy nghĩ về Thơ, qua nhiều dạng thức và trong quá trình của nó. Chữ Pháp là Poétique, hiểu theo nghĩa hẹp và cổ điển, áp dụng chủ yếu vào văn vần. Dùng theo nghĩa rộng và hiện đại, theo quan điểm của Valéry, được Jakobson phát triển về sau, từ Poétique được dịch là Thi Pháp, chỉ chức năng thẩm mỹ của ngôn từ, và nới rộng ra những hệ thống ký hiệu khác, là lý thuyết về tính nghệ thuật nói chung. Thi Học, giới hạn trong phạm vi thi ca, là một bộ phận nhỏ của Thi Pháp.

  • TRẦN CAO SƠNTriều Nguyễn tồn tại gần 150 năm, kể từ khi Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng đế với niên hiệu Gia Long - năm1802, tạo dựng một đế chế tập quyền trên toàn bộ lãnh thổ mà trước đó chưa hề có. Trải qua một thế kỷ rưỡi tồn tại, vinh hoa và tủi nhục, Triều đại Nguyễn là một thực thể cấu thành trong lịch sử Đại Việt. Những cái do triều đình Nhà Nguyễn mang lại cũng rất có ý nghĩa, đó là chấm dứt cuộc nội chiến, tranh giành quyền lực, xương trắng máu đào liên miên mấy thế kỷ, kiến tạo bộ máy quản lý hành chính trung ương tập quyền thống nhất mà Quang Trung - Nguyễn Huệ đã dày công vun đắp gây dựng trước đó. Dân tộc đã phải trải qua những năm tháng bi hùng với nhiều điều nuối tiếc, đáng bàn đáng nói ngay ở chính hôm nay. Song lịch sử là lịch sử, đó là một hiện thực khách quan.

  • TRẦN HUYỀN SÂMNếu nghệ thuật là một sự ngạc nhiên thì chính tiểu thuyết Thập giá giữa rừng sâu là sự minh định rõ nhất cho điều này. Tôi bàng hoàng nhận ra rằng, luận thuyết: con người cao quý và có tình hơn động vật đã không hoàn toàn đúng như lâu nay chúng ta vẫn tin tưởng một cách hồn nhiên. Con người có nguy cơ sa xuống hàng thú vật, thậm chí không bằng thú vật, nếu không ý thức được giá trị đích thực của Con Người với cái tên viết hoa của nó. Phải chăng, đây chính là lời nói tối hậu với con người, về con người của tác phẩm này?

  • HOÀNG NGỌC HIẾN           ...Từ những nguồn khác nhau: đạo đức học, mỹ học, triết học xã hội-chính trị, triết học xã hội-văn hoá... cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình văn học là nỗ lực vượt lên trên những thành kiến và định kiến hẹp hòi trong sinh hoạt cũng như trong học thuật. Những thành kiến, định kiến này có khi lại được xem như những điều hiển nhiên. Mà đã là “hiển nhiên” thì khỏi phải bàn. Đây cũng là một thói quen khá phổ biến trong nhân loại. Cảm hứng triết luận trong nghiên cứu, phê bình có khi bắt nguồn từ suy nghĩ về chính những điều “hiển nhiên” như vậy...

  • THÁI DOÃN HIỂUVào đời, Lưu Quang Vũ bắt đầu làm thơ, viết truyện, rồi dừng lại nơi kịch. Ở thể loại nào, tài năng của Vũ cũng in dấu ấn đậm đà làm cho bạn đọc cả nước đi từ ngạc nhiên đến sửng sốt. Thơ Lưu Quang Vũ một thời được lớp trẻ say sưa chép và thuộc. Kịch Lưu Quang Vũ một thời gần như thống trị sân khấu cả nước.

  • TRẦN THANH ĐẠMTrong lịch sử nước ta cũng như nhiều nước khác, thời cổ - trung đại cũng như thời cận - hiện đại, mỗi khi một quốc gia, dân tộc bị xâm lược và chinh phục bởi các thế lực bên ngoài thì trong nước bao giờ cũng phát sinh hai lực lượng: một lực lượng tìm cách kháng cự lại nạn ngoại xâm và một lực lượng khác đứng ra hợp tác với kẻ ngoại xâm.

  • ĐỖ LAI THUÝLTS: Trong số tháng 5-2003, Sông Hương đã dành một số trang để anh em văn nghệ sĩ Huế "tưởng niệm" nhà văn Nguyễn Đình Thi vừa qua đời. Song, đấy chỉ mới là việc nghĩa.Là một cây đại thụ của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam, Nguyễn Đình Thi toả bóng trên nhiều lĩnh vực nghệ thuật. Bằng chứng qua các bài viết về ông sau đây, Sông Hương xin trân trọng dành thêm trang để giới thiệu sâu hơn, có hệ thống hơn về Nguyễn Đình Thi cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN…Nguyễn Đình Thi quê quán Hà Nội, nhưng sinh tại Luang Prabang, Lào, ngày 20/12/1924. Từ 1931 theo gia đình về nước, học tại Hải Phòng, Hà Nội. Năm 1941 tham gia Thanh Niên cưú quốc, 1943 tham gia Văn hóa cứu quốc, bị Pháp bắt nhiều lần. Năm 1945, tham dự Quốc Dân Đại hội Tân Trào, vào Ủy ban Giải phóng Dân tộc. Năm 1946, là đại biểu Quốc hội trẻ nhất, làm Ủy viên Thường trực Quốc hội, khóa I…

  • HỒ THẾ HÀ          Hai mươi lăm năm thơ Huế (1975 - 2000) là một chặng đường không dài, nhưng nó diễn ra trong một bối cảnh lịch sử - thi ca đầy phức tạp. Cuộc sống hàng ngày đặt ra cho thể loại những yêu cầu mới, mà thơ ca phải làm tròn sứ mệnh cao cả với tư cách là một hoạt động nhận thức nhạy bén nhất. Những khó khăn là chuyện đương nhiên, nhưng cũng phải thấy rằng bí quyết sinh tồn của chính thể loại cũng không chịu bó tay. Hơn nữa, đã đặt ra yêu cầu thì chính cuộc sống cũng đã chuẩn bị những tiền đề để thực hiện. Nếu không, mối quan hệ này bị phá vỡ.

  • JAMES REEVESGần như điều mà tôi hoặc bất kỳ nhà văn nào khác có thể nói về một bài thơ đều giống nhau khi nêu ra ấn tượng về điều gì đấy được in trên giấy. Tôi muốn nhấn mạnh rằng đây không phải là toàn bộ sự thật. Việc in trên giấy thực ra là một bài thơ gián tiếp. Sẽ dễ dàng thấy điều này nếu chúng ta đang nói về hội hoạ hoặc điêu khắc.

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP...Nguyễn Huy Thiệp không phải là người duy nhất đổi mới phương thức trần thuật. Trước ông đã có Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Khải, Ma Văn Kháng... tích cực mở đường. Nhưng phải đến Nguyễn Huy Thiệp thì sự khai phóng về tư tưởng nghệ thuật mới được thể hiện một cách đậm nét. Tất cả được Nguyễn Huy Thiệp kiến tạo qua một trò chơi đầy tính bất ngờ. Giống như người nghệ sĩ ba lê tài năng, Nguyễn Huy Thiệp trình diễn một thế giới đa sắc trên đầu những đầu mũi ngón chân. Những ngón chân ấy bám trụ vào hiện thực một cách tinh diệu, xoay chuyển một cách nhịp nhàng với những vòng quay, những vũ điệu ngôn từ...

  • PHAN NGỌC THUTrong nền văn học Việt Nam thế kỷ XX, Xuân Diệu (1916-1985) là một trong những nhà thơ nổi tiếng nhất, đồng thời cũng là nhà phê bình văn học kiệt xuất. Từ những bài tranh luận văn học sôi nổi thời Thơ Mới (1932-1945) đến Tiếng thơ (1951), Những bước đường tư tưởng của tôi (1958); từ Phê bình giới thiệu thơ (1960) đến Trò chuyện với các bạn làm thơ trẻ (1961), Dao có mài mới sắc (1963), Lượng thông tin và những kỹ sư tâm hồn ấy (1978), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, tập I (1981), tập II (1982) và Công việc làm thơ (1984)... "chỉ tính riêng các tác phẩm lý luận phê bình, đã có thể gọi Xuân Diệu là một đại gia"(1)

  • BÙI QUANG TUYẾNThơ mới là một hiện tượng nổi bật của văn học Việt Nam nói chung và thơ ca nói riêng trong thế kỷ XX. Nó vừa ra đời đã nhanh chóng khẳng định vị trí xứng đáng trong nền văn học dân tộc với các "hoàng tử thơ": Thế Lữ, Xuân Diệu, Huy Cận, Chế Lan Viên, Hàn Mặc Tử v..v...

  • HÀ KHÁNH CHINgày 20 - 3 - 2003, siêu cường lớn nhất mọi thời đại là đế quốc Hoa Kỳ đã mở đầu cuộc chiến tranh kỳ quái nhất trong lịch sử bằng cách tấn công Iraq sau khi đã bắt quốc gia này phải tự phá huỷ vũ khí tự vệ của chính họ. Đó là bài học chưa hề thấy về chút hy vọng cuối cùng mà lương tri nhân loại có thể đòi hỏi. Để có thể hiểu rõ hơn những gì đang xảy ra hôm nay - có lẽ cũng rất cần ôn lại một trong những vấn đề lớn nhất mà loài người có thể nghĩ tới: cuộc chiến tranh Việt Nam đã kết thúc cách đây gần 30 năm.

  • HOÀNG ĐĂNG KHOA Văn học Việt từ sau 1975, nhất là từ thời kỳ đổi mới, là một quá trình văn học rất phong phú, đa dạng và không ít phức tạp, lại còn đang tiếp diễn. Cuốn sách Văn học Việt Nam sau 1975 - Những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy ra đời đáp ứng nhu cầu mang tính thời sự: nhu cầu nhìn nhận, đánh giá một cách khách quan, toàn diện về tiến trình văn học ba mươi năm qua, chuẩn bị cho sự ra đời của những công trình văn học sử và những chuyên khảo về giai đoạn văn học này.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrong đời có những bài thơ người ta quên, mà chỉ nhớ một câu nằm lòng. Bởi đó là những câu thơ thực sự, những câu thơ thi sĩ. Từ xưa đến nay, đã có rất nhiều định nghĩa về thơ: Thơ là tiếng hát của trái tim; Thơ là hạt muối kết tinh của tình cảm; Thơ là phút giây rung động của tâm hồn... Nói chung, những định nghĩa ấy cho ta hiểu rằng ở đâu có được sự rung động của trái tim thì ở đó có thơ.