Lưu Quang Vũ, tâm hồn trở gió

14:41 18/03/2008
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.

Gia đình Lưu Quang Vũ

Ước chi được hóa thành ngọn gió
Để được ôm trọn vẹn nước non này
Để sưởi ấm những đỉnh đèo buốt giá
Để mát rượi những mái nhà nắng lửa
Để luôn luôn được trở lại với đời...
Những câu thơ này ở trong bài Gió và tình yêu thổi trên đất nước tôi. Lịch sử đất nước, qua con mắt thơ Lưu Quang Vũ, bao trùm là gió và tình yêu. Cũng có thể mượn câu này để nói về đời và thơ của chính anh. Điều anh ước đã làm những trang thơ anh có rất nhiều gió.
"TÔI LỚN LÊN TRONG NGỌN GIÓ NHÀ GA"
Và nếm trải Ngọn gió dữ của rừng già khắc nghiệt. Do đó Lưu Quang Vũ khát những khoảng rộng, khát những chuyến đi. Anh luôn luôn là người đang ở trên đường. Như con tàu luôn bồn chồn ra đi. Thơ anh tất bật, hối hả như đời anh, suốt đời vội đi, suốt đời nóng ruột. Nghe tiếng gió chuyển, gió nổi, gió trở là anh náo nức muốn lao ra với cuộc đời bên ngoài, muốn tung mình ra không gian. Đối với anh mỗi sớm mai một cảng mới để lên đường. Cảm hứng mạnh nhất trong thơ anh là cảm hứng khai phá, tìm kiếm, dẫu sau vô biên sẽ chỉ có vô biên. Nhưng có ngọn gió nào từ chối những chân trời rộng mở? Còn bao chân trời chưa tới được mở ra trước mắt anh, vẫy gọi. Anh hối thúc, giục giã cả mình, cả người yêu thương: lòng chưa biết những gì đang ngóng đợi, nào em yêu chúng ta lại lên đường. Anh tiên cảm được hành-trình-gió của mình xa vắng lắm để có lý do e ngại, phấp phỏng lòng em có đến cùng. Lưu Quang Vũ, giống như nhà thơ lãng mạn Anh Percy Bysshe Shelley, thấy ở gió sự "hòa điệu dấy loạn" : gió có sức mạnh hủy diệt và bảo tồn; gió mang trên đôi cánh của mình sấm chớp, bão giông. Bài thơ Cơn gió tây hoang dã (Wild West Wind) của P.Shelley ngợi ca gió là thần linh hoang dại, người tung hoành trong ngang dọc không trung và kêu gọi gió Hãy là chính ta, hỡi cơn gió khốc liệt! Hãy cuốn đi những ý tưởng bị cuộc đời dập tắt, cành lá khô, từ đó cuộc sống tái sinh! Với gió, Lưu Quang Vũ không phân biệt đông tây hay nam bắc, cho anh hãy cứ là gió lộng. Và trong gió lộng, anh thấy dưới mặt trời xứ sở, vẫn cồn cào những cơn khát khôn nguôi. Từ đó anh muốn làm một cái gì, chí ít thì cũng thổi thêm sức mạnh cho những người dám vượt những dặm dài.

 

Bởi như gió, anh phóng túng, tự do. Dám sống đúng mình, dám nghĩ đúng minh. Anh không thể yên ổn trong những cái mực thước, khuôn phép, vừa phải, lừng chừng. Cửa kính đóng xong anh đưa tay đập vỡ, Đời anh ổn định rồi anh lại phá tung ra. Mạnh mẽ quá hay yếu đuối quá, một Lưu Quang Vũ trong tâm trạng này? Chỉ biết anh thật đến dễ sợ. Như gió, anh phơi bày tất cả mình ra để rồi thấy trời chật chội như chiếc lồng trống rỗng. Cuộc đời có lúc hiện ra trước mắt anh như một mụ già dâm đãng, một núi dây thừng bẩn thỉu rối ren. Môt đại dương tình cảm sôi sục trong tim anh chỉ mong được trào ra, mong được dâng hiến, nhưng chẳng ích lợi cho ai cả. Còn những gì mọi người cần tôi chẳng thiết. Thơ anh thời kỳ này (những năm 1972-73) có một cảm hứng nói thật, thật lắm, rất hiếm có trong thơ cùng thời, do đó là rất quý. Anh chẳng mang cho đời những tiệc vui ảo ảnh, Nỗi buồn chân thành đời chẳng nhận hay sao? Anh tin là cuộc đời không ruồng rẫy anh, bởi anh vẫn còn nguyên cái tinh chất của đời. Anh không muốn kỷ niệm về anh là một điêụ hát buồn. Trong cơn khủng hoảng tâm hồn giữa những biến động của xã hội và gia đình những năm tháng ấy, anh giữ được lòng tin để đi tiếp là nhờ đã thở trong sức gió muôn người. Không giấu diếm lòng mình, anh thú nhận. Đã có lần tôi muốn nguôi yên, Khép cánh cửa lòng mình cho gió lặng, nhưng đã là gió làm sao lặng được, anh vẫn sống đúng con người anh với những yêu thương khao khát của đời anh.
Như gió, anh sớm biết lật trở vấn đề để nhìn ra sự vật ở bề mặt thật của nó. Bài thơ Nói với  mình và các bạn anh viết năm 1970 là một lời tâm sự thẳng thắn, chân thành của anh với những người làm thơ thuộc thế hệ mình. Rộng ra, có thể coi đó là tuyên ngôn nghệ thuật của thế hệ anh về trách nhiệm của nhà thơ và thơ ca đối với đất nước, với nhân dân. Thơ không thể được viết để xuôi tai, phỉnh nịnh cuộc đời. Thơ không phải là chứng minh, không phải là hào quang phản chiếu của tấm gương.Nhà thơ không phải là lũ viết thuê, viết thơ theo kiểu chạy theo những biển hàng ngắn ngiủ, để rốt cục lại lắm kiểu nói mà giống nhau đến thế. Anh quan niệm thơ là phải sinh sự với cuộc đời không cho ai dừng bước cả, càng thương yêu càng không vừa ý với mọi điều. Nhà thơ phải  biết rằng Nịnh đời dễ, chửi đời cũng dễ, Chỉ dựng xây đời là khó khăn thôi. Chàng trai hai mươi hai tuổi khi đó đã nói với các bạn thơ cùng lứa: Thế hệ mình cần những người dũng cảm, Dũng cảm yêu thương dũng cảm căm thù. Chắc anh đã đặt mình vào trong số những người đó. Anh, như gió, vô tư cởi mở nói ra thật lòng những điều nhức nhối lương tâm người cầm bút, khi bè bạn gặp nhau có người theo dõi, thầm thì không dám nói to, khi những bài thơ anh viết ra, chỉ một mình anh đọc. Trong hoàn cảnh đó thơ phải là nhịp đập của trái tim trung thực, không bao giờ được câm lặng. Nếu điều đó bị coi là tội lỗi thì Anh hãy nhận về mình, như trách nhiệm, như niềm vui, Và sống chết cùng người, đất nước mến thương ơi! Anh nặng lời nhưng thành tâm: Người ta không thể sống bằng niềm tin đẹp, Bằng áp phích trên tường, bằng những lời đanh thép, Phải mang cho mọi người áo mặc cơm ăn, Phải có nhà trường cửa sổ trời xanh. Anh, như Arthur Rimbaud con người mang "đế giày gió" và có con mắt "thấu thị" (Voyant), đã thấy trước một trạng huống xã hội: Những điều hôm qua tưởng tuyệt vời tốt đẹp, Đến nay thành không đủ nữa rồi, Những người tốt tự bằng lòng với hôm nay, Mai sẽ là kẻ xấu. Gần hai mươi năm sau những điều anh viết ở đây, cơn gió đổi mới mới thổi lên trên đất nước. Anh là người nổi gió sớm trong thơ, như về sau nổi gió đầu trong kịch. Rát mặt đấy nhưng là gió lành. Ai chịu được thì sẽ khỏe mạnh.
Gió đưa Lưu Quang Vũ tìm đến biển, bỏ phường phố bỏ dòng sông anh tìm đến biển, Dù muộn mằn dù tê dại bàn chân, và anh thấy mở ra trước mắt một khoảng vô cùng. Những bài thơ anh viết về biển, về cảng hay một cách đau đớn không chỉ vì ở đó có tình bạn sâu nặng của anh, những người bạn cùng chung tâm tư và cảnh ngộ, mà có lẽ vì vùng đất và con người biển hợp với cơn gió hồn anh. Gió thổi bay tung mọi sự che đậy, đắp điếm, bóc trần sự vật đến lõi, đến chất. Điều này khiến thơ viết về biển Lưu Quang Vũ khác các bài thơ cùng loại của thế hệ anh : trong khi những người khác nhìn biển ở khía cạnh tình yêu, anh nhìn ở phía cuộc đời, nghệ thuật, dù là khi viết thơ tình. Biển phơi mở hết trước anh : Tất cả ở đây đều chưa định, Cuộc đời như sắp sửa đi xa, Tươi trẻ đến phát lo, Ồn ào mà sâu hút, Hải cảng trụi trần như bắp thịt, Ròng ròng mồ hôi, Mọi phía phơi ra dưới mặt trời, Cao thượng xấu xa đều không giấu được, Con người ở đây vô cùng cơ cực, Nên ước mơ nào cũng rộng cũng bay xa. Biển như cuộc đời anh : Những manh buồm như ngực anh gió táp, Những con tàu như hồn anh cuồng loạn, Chẳng bao giờ chịu ở với bờ yên, Ánh lân tinh lấp lánh vỏ thuyền, Gọi anh đi trên bãi hà nhọn sắc. Biển cho anh thấy minh đã khôn lớn qua mười năm từ lần đầu tới còn bỡ ngỡ giữa tin yêu đến lần sau trở lại thấy Chỉ gió về quằn quại giữa rừng dương, Và sóng đập liên hồi lên ngực đá. Biển đã thổi vào thơ anh một bài hát khác Thật và đẹp hơn mọi điều trong sách, Về những con tàu và các bạn của tôi.
" ĐẤT NƯỚC NHƯ CON THUYỀN XUYÊN GIÓ MẠNH"
Chính tại Hải Phòng mùa đông năm 1972 anh đã cảm nhận màn cuối cùng của cuộc chiến tranh khủng khiếp và phát giác một sự thật Tấm màn hạ xuống, Như không có gì xảy ra. Đất nước trong mắt anh là con thuyền xuyên gió mạnh. Gió của chiến tranh : Gió hú gầm gào qua gạch vỡ, người chết vùi thân dưới hố bom, Kẻ sống vật vờ không chốn ở, Lang thang trẻ ốm ngủ bên đường.Gió của đói nghèo : Những áo quần rách rưới, Những hàng cây đẫm mình vào bóng tối, Chiều mờ sương leo lắt đèn dầu, Lũ trẻ ngồi quanh mâm gỗ, Lèo tèo mì luộc canh rau. Gió của đổ vỡ : Gió đã thổi ngàn cây nến tắt, Khói bay mù mịt, Gã thất nghiệp đi lang thang, Túi rách không tiền mua nến. Cơn gió mạnh của thời cuộc xoay quật đất nước thổi thốc vào hồn anh đôi khi khiến anh choáng váng, nghiêng ngả: Tôi lớn lên giữa thời bạo ngược, Biết trông đợi gì biết tin tưởng vào đâu. Đêm Noel 1972 anh cất lời cầu nguyện trong tiếng rú còi báo động của thành phố : Sao cho máu đừng chảy nữa, Sao cho người lính trở về, Lũ trẻ ngủ ngon, Cái chết không cắt ngang giấc mộng. Ai đã sống qua thời ấy hẳn nhớ cái đêm này B52 Mỹ ném bom bệnh viện Bạch Mai, và đêm sau là đến cuộc hủy diệt khu phố Khâm Thiên. Anh còn nguyện những điều khác nữa : Nguyện cho phố tôi, không ai phải quanh năm túng đói, Không còn ai bị mỏi mòn sỉ nhục, Nguyện cho kẻ ốm mau lành, Nguyện cho người tôi thương không phải khóc, Nguyện cho lòng tôi đừng sợ hãi, Nguyện cho lòng tôi đừng nguội lạnh tình yêu. Nghĩa là anh muốn cắt cơn gió đảo điên cho đất nước, cho nhân dân, cho lòng mình. Nhưng những lời nguyện của anh đã được gió thổi bùng.
Có một đêm anh nằm mơ thấy hiện về rất nhiều khuôn mặt khóc cười nhìn anh : người ông say rượu rên rỉ những vần thơ phẫn chí, những ông tướng mất thành chết chém, những ả đào múa hát giữa sông khuya, người con gái che mặt ngón tay đầy vết mực, mẹ già Vĩnh Linh em gái Quảng Bình, những đồng đội ngày xưa, Nguyễn Du gương mặt đa tình khóe miệng xót xa, Phật ngồi nhắm mắt, Giêsu tay máu chảy ròng ròng... Tất cả những kiếp người hiện về như trách giận anh điều gì và như đòi hỏi anh một điều gì. Muôn người chết đứng lên cùng kẻ sống, Những cánh tay như dấu hỏi chìa ra, Những cánh tay như buồm thẳng vươn xa, Trên biển rộng đợi một lời giải đáp. Lạ lùng sao tôi muốn nói nhưng bốn bề gió lốc. Ở đây đã xảy ra một đột biến trong thế giới tinh thần của Lưu Quang Vũ. "Khi gió xuất hiện trong các giấc mơ, nó báo hiệu một sự kiện quan trọng đang được chuẩn bị ngầm; một sự đổi thay sắp xảy ra" - Từ điển biểu tượng văn hóa cho biết thế. Và đây là lời của Aeppli Ernest trong sách Les Rêves et leur interprétation ( Paris , 1951) được từ điển đó dẫn ra : "Những sức mạnh tinh thần được tượng trưng bởi một ánh sáng lớn và, điều này người ta ít biết hơn, bởi gió. Nhìn bão táp đến gần, người ta có thể chẩn đoán một chuyển động lớn của thần linh hoặc các thần linh. Theo kinh nghiệm tôn giáo, thánh thần có thể hiện ra trong tiếng thì thầm êm dịu của gió hoặc trong cuồng phong của bão táp. Dường như chỉ người phương Đông mới hiêủ được ý nghĩa của không gian rỗng (gió thổi vào đó). Thật là nghịch lý, đối với họ đây là một biểu tượng mạnh mẽ của năng lượng". Gió lốc nổi lên ngăn anh nói. Những mặt người như những quả chuông, Sáng lòe chớp giật đòi anh phải suy ngẫm đã trước khi lên tiếng nói. Một tiếng nói khác. Một bảng từ khác. Những con chữ hoa mỹ, bay bướm, đèm đẹp, ngòn ngọt phải xua đi. Thay vào đó là những chữ sắc nhọn như đinh, gầy guộc như bùn. Cơn gió đến trong giấc mơ đã làm anh thức tỉnh, đã "thanh lọc" anh : Tôi ở cùng những chữ hôm nay, Điều còn lại sau đường dài tôi vượt, Những chữ lấm lem đứng dậy từ đời thật, Tin yêu cuộc đời theo cách của tôi.
Trong cơn bi phẫn, có phần tuyệt vọng, trước cảnh tượng đau thương, tan nát của đất nước, anh đã kêu lên ba tiếng : Việt ơi ! Anh xin Người, Tổ Quốc, đừng trách giận anh khi nghĩ về Người anh thấy lòng rách nát, thay vì thấy Tổ Quốc là nơi tỏa bóng yên vui, nơi khiến lòng yên tĩnh nhất. Cơn bão lớn vẫn đang lồng lộn thổi trên thân mình đất nước, cơn gió hồn anh vẫn đang vật vã, anh không thể yên lòng được khi nhắc đến hai tiếng thiêng liêng Việt . Giữa dàn đồng ca hào hùng tụng ca đất nước thời trận mạc, Lưu Quang Vũ riêng mình đau và lo cho đất nước : Tất cả sẽ ra sao, Mảnh đất nghèo máu ứa, Người sẽ đi đến đâu, Hả Việt khốn khổ? Đến bao giờ bông lúa, Là tình yêu của Người? Đến bao giờ ngày vui, Như chim về  bên cửa?. Những câu hỏi như gió xoáy. Như gió, anh gã làm thơ da vàng, từ nay biết mình khát những khoảng rộng nào, cần những ào ạt nào cho thơ, và cho đời. Thơ anh là sức gió đẩy cửa, nối những chân trời với những chân trời, đưa tin con người đến với con người. Chúng ta đi mở những cánh cửa, Chúng ta suốt đời đi mở những cánh cửa, Xuyên bóng tối bốn bề bao phủ, Chúng ta đã nhận ra nhau, Chúng ta đã tìm đến bên nhau, Chúng ta mãi mãi ở bên nhau,
NHỮNG BÀN TAY KHÔNG CÒN ĐƠN ĐỘC NỮA. Sức gió ấy đến hôm nay vẫn còn lay động trên những trang thơ anh. Vẫn còn đủ sức lay động lòng người hôm nay. Càng lay động khi biết anh hồi ấy tự mình nổi gió. Thổi gió một mình.
"EM CẦN GÌ GIÓ LỐC CỦA ĐỜI TÔI"
Lưu Quang Vũ đến và đi trong tình yêu cũng với sức gió. Tình của anh mạnh mẽ, ào ạt và khoáng đạt. Khi yêu: Đến bây giờ anh gặp được tầu em, Anh mở gió tâm hồn cho buồm thắm kéo lên. Khi được yêu: Em có nghe đất trời đang náo động, Như tình em nổi gió giữa hồn anh. Những ngày chưa có em: Anh như một toa tàu bỏ vắng, Rất nhiều gió thổi qua cửa lạnh. Và khi đã có em: Em đã tới diệu kỳ như âm nhạc, Đất mênh mông chuyển gió tới chân trời. Không chỉ tình riêng của mình, bao thế hệ lứa đôi đến với nhau trong trường kỳ lịch sử đất nước anh cũng thấy Những mối tình trong gió bão tìm nhau. Anh đã sống và đã yêu trong một thời kỳ bão táp, những cuộc tình đời anh đã trải nhiều gió bão.
Cuộc tình đầu tiên của người trai mới lớn nơi anh, như mọi cuộc tình, đắm say và mơ mộng. Nhưng tâm hồn anh trong yêu đương vẫn bay bổng trên đôi cánh gió. Những băn khoăn, thương nhớ khó hiểu về em - trạng thái tình cảm của những ngưòi yêu nhau, nhất là mối tình đầu - anh mở tung ra với gió để chuyển tới người yêu dấu. Anh vọng về em một sắc trời xanh, Ở nơi xa em có nhớ gió ân tình. Anh  nhớ em dẫu ngày mai chẳng biết sẽ ra sao, anh cố quên nhưng chiều gió cứ vào. Anh nhìn thấy hai vì sao đổi ngôi trong đêm gió (sao là đêm gió chứ không phải đêm nào khác?) và tin chắc đó chính tay mình đang vượt khoảng xa, tìm đến nơi này âu yếm nắm tay ta. Anh vui trong mảnh vườn em đọng gió trời xa. Anh bực bội bỏ nhà ra đi như ngọn gió nhưng ngọn gió âm thầm quằn quại vẫn yêu em. Gió làm cho tình yêu xao động và phập phồng. Trời xa luôn vẫy gọi gió. Cơn gió một buổi là dễ chịu, nhưng một đời gió là thử thách không phải tổ ấm gia đình nào cũng đương nổi. Anh  đi ra nhìn lại mảnh vườn xưa thấy hẹp. Nhiều điều chưa nói được cùng em, mà nói ra em hiểu hết chăng. Em trói anh vào cột buồm của tình yêu sau khi cướp được con tàu cuộc đời anh, ngờ đâu tàu anh không có bạc vàng, chỉ có ván nát sàn hoang và trơ lại hồn thơ tai ác quá. Maiakovski từng đã kinh nghiệm chuyện này - vấp đời phàm tục tan vỡ chiếc thuyền tình, và ông đã tìm đến cái chết để cự tuyệt nó. Lưu Quang  Vũ thì nuối tiếc tình đẹp ban đầuEm mà ngọn gió chiều nức nở, Em mà ngày xưa run rẩy cả lòng anh.Và anh đành cay đắng, chua chát nói lời từ biệt: Hai ta không đi một ngả đường dài, Không chung khổ đau không cùng nhịp thở, Những gì em cần anh chẳng có, Em không màng những ngọn gió anh trao.
Ngọn gió Lưu Quang Vũ tiếp tục thổi trong đời sau lần đổ vỡ thứ nhất. Anh ngỏ tình lần hai trong một khung trời dữ dội Trời chuyển gió sắp quay cuồng bão lớn. Bão ngoài đời và bão trong lòng. Anh cầu khẩn Em u buồn em có nhận hay không nhưng vẫn là anh, là gió Tìm trong mắt em náo động những chân trời. Anh nhìn những bức tranh trên tường thấy chúng nổi gió. Dễ hiểu thôi, cuộc đời mình anh đã coi là gió, ai bước chân vào đó không thể lặng yên được. Con người luôn luôn ở trạng thái động này không thể để ai yên. Dù cho đó là người con gái mình yêu. Anh muốn yêu, muốn được yêu, nhưng tình yêu phải quay trong cơn gió đời anh. Tha thiết, giục giã Tôi muốn đi tới đích cùng em, Tôi phải đi tới đích cùng em nhưng không che giấu mình Tôi ảo tưởng quá nhiều ư? Có lẽ, Em cần gì gió lốc của đời tôi. Trên kia là câu nói khi chia tay hai ngả đường đời "em không màng...". Còn đây là câu nói lúc ngỏ lời muốn gắn kết hai cuộc đời "em cần gì...". "Những ngọn gió" lúc trước bây giờ đã tăng cấp thành "gió lốc". Lưu Quang Vũ đã nhìn đúng mình và linh cảm được kết cục cuộc tình thứ hai. Anh là gió mà, không còn gì nữa cả: Bây giờ anh trong suốt như không khí, Như ngọn gió hoang không hình không giới hạn... Chỉ có gió, Em làm sao thấy được.
Em không thấy, nhưng anh thì thấu rõ lòng mình nát tan đến thế nào. Tôi còn gì mà đau khổ nữa em? Lưu Quang Vũ kết lại mấy đoạn thơ gửi Q. (Xuân Quỳnh) bằng câu hỏi đó. Anh thú nhận với người đàn bà rồi đây sẽ sống trọn với anh mười lăm năm hạnh phúc  lớn lao: Lòng tôi trắng nhưng mùa thu gió độc. Người ấy bảo anh cần phải tìm một lý do để sống, để gắn bó để lòng mình yên ổn. Nhờ đó anh lấy lại được lòng tin và lòng yêu. Và lại thấy nổi gió những chân trời mới: Mưa như bước chân những khát vọng vô hình, Trên một biển lá vàng đang nổi gió. Người ấy cho anh điều khẳng định Anh yêu em và anh tồn tại. Người ấy ở bên anh giữa Thành phố rộng, hồ xa, chiều nổi gió. Người ấy góp thêm gió cho anh, mùa gió mới nhờ em tôi có lại. Người ấy nổi gió những vần thơ có cánh  cho anh và cho đời. Thế là đến đây gió đời anh đã gặp được, đã kết tụ được với gió của người bạn đời, tạo nên cơn gió lành như câu thơ anh viết tuổi hai mươi gió xuân thổi hết những ưu phiền. Người ấy cùng anh chung căn phòng chật nhưng Anh ngẩng lên là ở cạnh em rồi, Bạn thuyền ơi ngoài kia chiều lộng gió. Nhà chật mà anh vui vì có gió lộng trong tâm hồn hai người đồng điệu. Khi người ấy vắng Gió  bồn chồn gọi nhắc bước chân quen. Một chiều chuyển gió,  chỉ gió chuyển chứ có gì khác lạ,  anh bỗng bồn chồn đợi người ấy đi làm về, bởi cơn gió chuyển mùa cho anh cảm nhận tháng năm sống bên người ấy anh hiểu lại cuộc đời, anh bắt đầu tất cả, mùa hạ đầu tiên ngọn gió đầu tiên. Bên người ấy anh muốn mình nhỏ lại, muốn dịu đi cơn gió của mình: Anh muốn làm cánh cửa để em quên, ngọn gió nhỏ trên trán em kiêu hãnh. Người ấy anh vừa yêu vừa sợ và nhận ra người ấy là ngọn gió heo may. Và rồi ước chi còn tất cả để trao em...
Điều ước ấy là một dấu hiệu tan vỡ. Anh lại nghe tiếng gió gọi lên đường. Anh cất tiếng hỏi Em có nghe từ phía nào đang tới, Trên những ngả đường trở gió chiều nay, Một cái gì chúng ta còn chưa biết, Một cái gì chưa ai đoán được?  Cái gì đó thôi thúc anh ra đi như đã từng trước đây ra đi, có em chung bước: Anh cùng em đi hết ánh trăng này, Một thành phố khác, một bờ bến khác. Trong khi đó trái tim người phụ nữ đời anh  đã thấm mệt. Trái tim nhiều vất vả lo buồn, Trái tim lỡ yêu người trai phiêu bạt, Luôn mắc nợ những chuyến đi, những giấc mơ điên rồ, những ngọn lửa không có thật. Người ấy nghe thao thiết những lời gió hát  câu thơ của anh, nhưng trái tim đã phập phồng một câu hỏi rất thật, rất đời: Ánh trăng trải mênh mông phía trước, Bao giờ đi hết ánh trăng đây? (X.Q). Cánh chuồn không còn chịu được gió, không còn bay cùng được với gió. Giông bão nổi lên cánh chuồn sa xuống. Cho đến khi Gió đã dừng nơi cuối chót không gian, Anh vẫn chưa nói được cùng em, Bài hát ấy vẫn còn là dang dở. Dẫu anh có lúc đã muốn dừng chân lại trên mặt đất, bằng lòng với những gì có được trong tầm tay, trong hiện thực: Không ôm được cả bầu trời lồng lộng, Nhưng có thể cầm một chùm quả trên tay. Dẫu  người ấy đã vì anh mà đau khổ, đã vì anh mà tin tưởng: Thời gian như là gió, Mùa đi theo tháng năm, Tuổi theo mùa đi mãi, Chỉ còn anh và em (X.Q). Anh biết, trong các cuộc tình anh đều không lẩn tránh được điều này, rằng đời tôi những chuyến ra đi, còn em món ăn quen thuộc chốn quê nhà. Anh đau khổ những chuyến tôi đi sao em không hiểu được, dù vẫn nói anh nào dám trách lòng em nhỏ hẹp. Cuối cùng, cơn gió và cánh chuồn đã dìu nhau về đỉnh trời cao, cho đời đẹp ta sợ gì cái chết, trước khi giông bão xảy ra. Cho đến phút chót anh và người ấy vẫn bên nhau, nằm bên em nghe gió suốt đêm dài.
                                Qua mọi điều ngọn gió có qua đâu
                                Luôn luôn ra đi, luôn luôn mới đến
Lưu Quang Vũ giờ đây đang ở quanh chúng ta. Như gió, đêm ngày vẫn thổi. Như  gió và tình yêu thổi trên đất nước, thổi không yên suốt dọc dài lịch sử, qua đất đai và đời sống con người. Đời anh là gió, thơ anh là mây. Gió thổi mát và mây che mát. Mây cho gió dừng chân và gió cho mây bay bổng. Gió và mây hợp lại có thể làm mưa, mưa tưới nhuần mặt đất. Gió lòng anh đang thổi tới lòng ta.(1).
      VIII.1998
(Nhân 10 năm mất LQV và XQ)
PHẠM XUÂN NGUYÊN
(nguồn: TCSH, 1.1999)
--------------------------------------------------
(1) Tất cả thơ trích dẫn (in nghiêng trong bài) đều rút từ sách "Lưu Quang Vũ, thơ và đời (Lưu Khánh Thơ biên soạn), Nxb Văn hóa - Thông tin, H.1997. Đây là tập thơ mang tính tuyển từ các tập thơ đã xuất bản của Lưu Quang Vũ (Hương cây-Bếp lửa, Mây trắng của đời tôi, Bầy ong trong đêm sâu) do  đó nó khá tiêu biểu cho thế giới thơ của anh. Do tính chất của  bài viết, tôi không đề tên các bài thơ và số trang, bạn đọc có thể tự mình tìm thấy những câu thơ đó trong tập thơ trên (P.X.N).

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.