Luật từ chức: chế tài văn hóa công chức!

10:51 28/11/2011
Việc đại biểu Đỗ Văn Đương (TP HCM) đề nghị Quốc hội nên có Luật Từ chức (17/11) khiến dư luận xã hội có những phản ứng trái ngược nhau trong mấy ngày trở lại đây.
[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

Như tác giả “Mõ” của Báo Pháp Luật Online thì cho rằng việc “từ chức” là một “hành vi văn hóa” và do chủ thể “tự nguyện” chứ không nên do luật này, luật nọ quy định.

Riêng cá nhân tôi ban đầu cho rằng ông đại biểu họ Đỗ trên chắc “đua đòi” theo các vị đại biểu khác nên mới có một đề nghị như vậy. Và rằng so với đề nghị có Luật Nhà văn, được các nhà văn nói “tếu” là có thể “tham gia kỷ lục Guiness” thì Luật Từ chức có vẻ “mới mẻ” và có phần “táo bạo”… phi hiện thực!

Quanh chuyện từ chức

Tuy nhiên, ngay lập tức tôi đã thấy mình chưa hiểu Đỗ Văn Đương

Tôi lên Google tìm kiếm cụm từ “từ chức” thì kết quả thật quá bất ngờ.

Trang đầu tiên, với 10 trên tổng số 220.000.000 đường link đều là tin “từ chức” của các nguyên thủ nước ngoài từ các trang mạng bằng tiếng Việt Nam.

Chẳng hạn: Tin cổ động viên Italia vui mừng vì Berlusconi từ chức Thủ tướng Italia (VnExpress), tin vua Jordan đòi Tổng thống Syria từ chức (BBCVietnamese), tin Tổng thống Yemen cam kết từ chức trong vòng 90 ngày (Dân trí)…

Lọt thỏm trong số đó, đến… trang 2 mới có bài “Giám đốc xin từ chức: Muốn sống trung thực, sao khó thế!” của tác giả Kim Dung (Tuần Việt Nam, 17/07/2010).

Bài viết “lẻ loi” cách đây đến hơn… 1 năm. Điều đó không khỏi khiến chúng ta suy nghĩ vì Việt Nam “cực hiếm” các vị quan “từ chức” so với Bắc Mỹ, Châu Âu và Nhật Bản.

Điều đó có ý nghĩa như thế nào?

Phải chăng là do đội ngũ lãnh đạo quản lý của chúng ta đa số đều có tài, có tâm, có tầm và được người dân tín nhiệm tuyệt đối!

Nhưng khi click vào đường link bài viết: “Giám đốc xin từ chức: Muốn sống trung thực, sao khó thế!” và đọc ngấu nghiến nó thì tôi mới bứt rứt, trằn trọc, băn khoăn mãi về vấn đề thời sự này.

Trong bài viết của mình, tác giả Kim Dung đã viết rằng:

Hiếm hoi, bởi trong xã hội lâu nay, có không ít vụ việc tiêu cực, thể hiện sự tha hóa hoặc bất tài của cán bộ đương chức, cán bộ lãnh đạo, thế nhưng rất ít người có "gan" xin từ chức. Đến nỗi nhân dân, báo chí phải chân thành kêu gọi, nên có "văn hóa từ chức" một khi không còn xứng đáng ở cương vị đó. Dù vậy, không ít vụ, cùng lắm các quan chức xin "nghiêm khắc tự kiểm điểm", hoặc "rút kinh nghiệm".

Còn nếu có vị xin từ chức, xin hưu trí trước tuổi, lại là kế "trong 36 chước, chước hưu là hơn" để tránh sự truy xét, xét xử của pháp luật
.”.

Té ra đại biểu Đỗ Văn Đương có lý.

Việt Nam và căn bệnh công chức “văn hóa tiểu nông”

Tôi đã đọc đi đọc lại tin tức về ý kiến nên có Luật Từ chức của đại biểu Đỗ Văn Đương trên nhiều trang mạng internet. Và nhận ra mình đang chìm nỗi buồn miên man.


Chẳng hạn, đại biểu Đỗ Văn Đương nêu dẫn chứng có đến 1/3 công chức đang “chân trong chân ngoài” khiến hoạt động hành chính Nhà nước “không hiệu quả”!

Số liệu và kết quả này khiên tôi nóng ran cả người. 1/3 là bao nhiêu? Con số này chắc hẳn đến Bộ Nội vụ cũng khó dò tìm ra đáp số cuối cùng!

Nhưng riêng đối với người dân thì rõ ràng họ sẽ phải “è lưng” ra trả thuế để “nuôi” hàng vạn “phó” phụ mẫu chi dân với lối làm việc “lơ - tơ - mơ” và “nhanh – nhẩu – đoản” của họ.

Tôi chợt nghĩ lại và thấm thía câu nói của Phật hoàng Trần Nhân Tông:
“Đất nước bé bằng bàn tay, quan nhiều như thế, dân làm sao sống nổi?”.

Mặt khác, đại biểu Đỗ Văn Đương cũng rất dũng cảm khi cho ý kiến trước Quốc hội: “người đứng đầu không có tài cũng nên thôi”.

Chắc hẳn từ trước đến nay ít có vị đại biểu nào dám “lật ngược” nền văn hóa tiểu nông của dân tộc với tuyên bố đanh thép như đại biểu Đỗ Văn Đương.

Bởi ai lại không biết câu “sống lâu lên lão làng” và “con vua thì lại làm vua” đã trường tồn từ xưa đến nay ở Việt Nam.

Thực tế ở Việt Nam hiện nay, có loại công chức biết “an phận”, biết “mua vui” cho “sếp”, không chơi “trội” thì từ từ cũng sẽ được thăng quan tiến chức! Và nếu có “ô dù”, “quan tộc” thì đường quan lộ lại càng như “diều gặp gió”.

Bởi thế mới có chuyện anh bán cháo lòng lên làm chủ tịch xã còn anh cử nhân kinh tế tốt nghiệp về quê bán cháo lòng.

Hay anh cử nhân tốt nghiệp loại giỏi gốc gác công – nông phải làm “thợ đụng” còn anh tốt nghiệp Đại học tại chức thì lại được kế nghiệp sự nghiệp truyền thống của gia đình từ… sếp “cha”.

“Treo ấn từ quan”- việc nên làm thành Luật!

Đối với các nước phương Tây, văn hóa du mục từ ngàn xưa đã quy định quy tắc ứng xử rõ ràng.

Trong một bầy thú, con thủ lĩnh phải là con mạnh nhất, nhanh nhất, khỏe nhất, khôn ngoan nhất. Con thủ lĩnh sẽ được hưởng nhiều quyền lợi nhất: nhiều thức ăn, nhiều “bạn tình” khi đến mùa sinh sản… Nhưng đổi lại nếu có sự tấn công từ bên ngoài hoặc bất cứ khó khăn gì cho bầy đàn thì nó phải xông ra chiến đấu hay đương đầu cho đến sức tàn lực kiệt.

Đối với xã hội cũng vậy, lãnh đạo có tài, có tâm, có tầm thì mới được tung hô. Còn ngược lại thì bị coi như một cọng cỏ vứt đi, chẳng còn có tác dụng trong mắt người dân!

Chẳng hạn Ông Berlusconi khi lên nhậm chức Thủ tướng năm 1994 được nhân dân tung hô như một “người hùng”, một “vị cứu tinh” cho đất nước Italia đang riệu rã. Nhưng khi Ông Berlusconi mất dần lòng dân và bị dân chúng phản đối bằng tín nhiệm bầu cử thì vị Thủ tướng cũng phải “chấp nhận” từ chức.

Chúng ta đặt ra một câu hỏi: Nếu không từ chức thì Ông Berlusconi sẽ lãnh hậu quả gì? Hậu quả của một Muammar Gaddafi độc tài và bị bắn chết là một trong những câu trả lời? Chưa hẳn, đa phần vì lòng tự trọng được hun đúc từ nền giáo dục đề cao tinh thần nhân văn, không có chuyện mua bằng, bán điểm đã không cho phép họ tiếp tục tại vì.

Những vị quan chức phương Tây khôn ngoan là những người nhìn thấy và biết trước được kết cục của sự nghiệp mình. Đó là họ phải từ chức khi lòng dân không còn tín nhiệm họ.

Thậm chí Hiến pháp Hoa Kỳ còn quy định nhân dân có quyền được bãi miễn công chức Nhà nước và cả Nhà nước thống trị họ.

Tuy nhiên, ở Việt Nam thì lại chưa có nhiều hiện tượng “từ chức” theo đòi hỏi của lòng dân. Bởi chính nền văn hóa tiểu nông đã bao biện cho suy nghĩ của nhiều quan chức tài ít tật nhiều.

Chẳng hạn, do sống lâu mới lên lão làng nên khó có vị quan nào chịu từ bỏ cái ghế của mình. Chính cái ghế - cái danh và cũng là cái lợi đã cột chặt họ vào những toan tính tiểu nông đến kinh hoàng. Bởi cứ “một người làm quan cả họ được nhờ”, “có tiếng, có miếng” thì ai lại từ bỏ cái “bát vàng” của mình.

Chẳng hạn, lối sống trọng tình xuề xòa và coi thường pháp luật theo kiểu “một trăm cái lý không bằng một tí cái tình” khiến một số quan chức Việt Nam cứ hễ sai sót là tìm cách “chạy án”, “chạy tội” như “thuyên chuyển công tác”, “đi học nước ngoài”… cho đến khi tai qua nạn khỏi.

Thậm chí, việc quy định tập thể phải chịu trách nhiệm trước các sai phạm lại càng khiến cho công chức không thể từ chức. Bởi nếu sai phạm có lớn đến đâu cũng sẽ được cho là “việc lớn hóa nhỏ, việc nhỏ hóa không” và “hô biến” một cách tài tình.

Như vậy, quan chức Việt Nam khó có thể “tự mình” từ chức được! Vậy phải cần chế tài quy định nội dung này và phải được cả xã hội chấp nhận.

Và bản thân chế tài thì không còn là văn hóa nữa. Nó phải là luật pháp. Cụ thể là Luật Từ chức như đại biểu Đỗ Văn Đương đã nêu lên ý kiến.

Dẫu biết chúng ta phải tiên phong tạo ra một “khế ước xã hội” so với thế giới từ Luật Từ chức, nhưng hy vọng nhờ liệu pháp chế tài này mà lực cản cho sự lành mạnh hóa nền hành chính Nước nhà có thể được dỡ bỏ. Và tất nhiên, những điều Nhà nước chúng ta làm đều theo một phương châm rất đơn giản. Đó là: “Cái gì có lợi cho dân thì phải hết sức làm, cái gì hại cho dân cũng cần phải hết sức tránh.”

NGUYỄN VĂN TOÀN





Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.