Luận bàn về những vấn đề minh triết

17:35 11/12/2009
HOÀNG NGỌC HIẾN(góp phần định nghĩa minh triết)         (tiếp Sông Hương số 248)

GS Hoàng Ngọc Hiến

Aristote có phân biệt “minh triết lý thuyết” và “minh triết thực tiễn”. Minh triết thực tiễn thể hiện ở chỗ biết “suy tính những gì là tốt, là thiết thực… cho mình để có được một cuộc sống tốt, nói chung” (ở đây cần hiểu “cuộc sống tốt” một cách toàn diện: cả về vật chất và tinh thần, không chỉ có tư duy, ứng xử tốt mà ăn, ở, mặc cũng “tốt”, không những tốt trong việc công mà tốt trong cuộc sống riêng, với gia đình, bạn bè và… với cả bản thân mình). “Cuộc sống tốt” được hiểu một cách toàn diện như vậy, thì cái đầu “minh triết” của Aristote quả là vĩ đại! Chỉ có “minh triết lý thuyết” thì người minh triết dễ biến thành một kẻ hão huyền, gàn dở, ba hoa, nhảm nhí. Trong tiếng Việt có một từ hết sức đích đáng để diễn đạt ý niệm “cuộc sống tốt” của Aristote, đó là từ “hẳn hoi”. Với từ này chúng ta có thể tóm gọn “minh triết” trong một câu:

“Minh triết là biết làm thế nào sống hẳn hoi”.

“Hẳn hoi” không phải là một tiêu chuẩn quá cao: không phải thật giỏi mới hẳn hoi, không phải thật đàng hoàng, thật dũng cảm, thật “đạo cao, đức trọng” mới hẳn hoi… “Hẳn hoi” là một phẩm chất có thể đặt ra trong mọi lĩnh vực, ở mọi bình diện: ăn mặc hẳn hoi, nhà cửa hẳn hoi, lời lẽ hẳn hoi, một người thầy hẳn hoi, một người cha hẳn hoi, một người lãnh đạo hẳn hoi, học vấn hẳn hoi, làm ăn hẳn hoi… Xã hội nào cũng có kỷ cương và lễ nghi, người hẳn hoi tiếp nhận tinh thần của kỷ cương và lễ nghi với lòng tự trọng chứ không bị lệ thuộc một cách mù quáng vào những quy ước của kỷ cương và lễ nghi. Xã hội nào cũng có tôn ty trật tự, người hẳn hoi không gò mình vào trật tự này nhưng rất có ý thức về lẽ phải của thứ bực. Vài mươi năm trước đây với bộ phim nổi tiếng về người Hà Nội, Trần Văn Thủy đã làm sống lại phẩm chất “tử tế” trong ý thức đạo đức của xã hội. Tuy nhiên, phẩm chất này dường như vẫn chưa được chính thức công nhận, đạo đức và hành vi được kiểm điểm theo nhiều chuẩn mực trừ chuẩn mực “người tử tế”. Phẩm chất “hẳn hoi” cũng có số phận tương tự. Một hiện tượng quan trọng trong đời sống tinh thần của nhân loại là những gì không được người ta nhớ đến thì dần dà sẽ biến mất. Xã hội không quan tâm đến “sự tử tế”, “sự hẳn hoi” thì dần dà những người tử tế, hẳn hoi sẽ biến mất; ngược lại, xã hội còn nhớ đến những phẩm hạnh này, thì những người hẳn hoi, tử tế xuất hiện khắp nơi. Ở xã hội ta, chính họ (những người hẳn hoi, tử tế trong Đảng và ngoài Đảng) là nền tảng đạo đức của xã hội.

Ở những mục trên chúng tôi định nghĩa minh triết bằng cách nêu lên những đặc trưng của minh triết, phân biệt nó với triết lý. Sau đây là một định nghĩa phổ thông về minh triết chúng tôi cố gắng trình bầy thật ngắn gọn.

Theo cách hiểu thông thường nhất minh triết là khôn ngoan, nhưng khôn ngoan chưa phải là minh triết, chẳng hạn khôn ngoan để “ăn người” thì chưa phải là minh triết. Minh triết là biết sống khôn ngoan và hẳn hoi, nói một cách khác, sự khôn ngoan của minh triết thường gắn với những giá trị hướng thượng, hướng thiện. Hẳn hoi là một từ rất Việt (chúng tôi chưa tìm được ở những ngôn ngữ khác từ tương ứng). Trong xã hội Việt Nam, ở mọi nơi mọi thời, người hẳn hoi bao giờ cũng được nể trọng. Hẳn hoi có gốc rễ ở những đức tính phổ quát: đó là sự hướng thiện, sự “liêm chính”, nhìn chung sự hẳn hoi của con người không ở ngoài bốn chữ “cần, kiệm, liêm, chính” của cụ Hồ. Sự hẳn hoi có tính phổ quát, tính “liêm chính” ở người hẳn hoi thể hiện ở việc to và việc nhỏ. Bị vu oan là “làm hư hỏng thanh niên”, Socrate bị bức tử. Sắp sửa uống cốc “cần độc” thì Socrate sực nhớ có mua chịu một con gà và ông nhờ một người bạn trả tiền giùm cho ông, đây là một trong những lời trăn trối cuối cùng của ông: Socrate là người hẳn hoi trong việc nhỏ. Cũng như trong việc lớn: được tin Socrate bị án bức tử, mấy người bạn của ông lập mưu kế cho ông chạy trốn, nhưng nhà hiền triết đã từ chối, lấy cớ bỏ trốn là chống lại pháp luật mà tín niệm công dân của ông là tôn trọng luật pháp bằng mọi giá, Socrate đã coi trọng tư cách công dân hẳn hoi của ông hơn cả tính mạng của ông. Có một sự việc, nhỏ thôi, nhưng qua đó có thể thấy được sự hẳn hoi của Hồ Chí Minh. Hoạ sĩ Dương Bích Liên được cấp trên điều động đến sống với Hồ Chủ tịch một thời gian để vẽ chân dung. Hoạ sĩ vẽ rất nhiều ký hoạ về Bác Hồ. Một vị lãnh đạo xem những ký hoạ của Dương Bích Liên không hài lòng và quyết định đưa họa sĩ trở về cơ quan chủ quản. Dương Bích Liên ra đi mà Hồ Chủ tịch không hay. Đến lúc biết việc ra đi đột ngột của người hoạ sĩ, Hồ Chủ tịch liền cho người đuổi theo và đưa hoạ sĩ trở về. Bác mời Dương Bích Liên dùng cơm thân mật rồi sau đó hai bác cháu mới chia tay (thuật theo lời của Hào Hải, một bạn vong niên gần gũi với Dương Bích Liên). Sự việc sau đây là một sự kiện lớn. Sau Hiệp định Geneve, trong một chuyến Hồ Chủ tịch đi thăm Ấn Độ, trong một cuộc phỏng vấn, có một phóng viên nước ngoài đặt câu hỏi về Ngô Đình Diệm, Hồ Chủ tịch đã trả lời đại ý như sau: Tôi đến đây không phải để nói xấu ông Ngô Đình Diệm, ông là người yêu nước nhưng theo cách của ông ấy… Trong cách trả lời phỏng vấn của Hồ Chủ tịch, có sự khôn ngoan, nhưng nổi lên vẫn là sự hẳn hoi của một chính khách lớn.

Ở những phần trên, qua sự đối lập minh triết với triết lý một số đặc điểm của minh triết đã được xác định: không có lịch sử, gắn với nghiệm sinh, quan tâm đến sự cân bằng, hài hoà, thể hiện trong lối sống… Còn có một cách đối lập khác, đối lập minh triết với tri thức.

T. S. Eliot (1888-1965) có lời than vãn:

“…minh triết mất rồi, chỉ còn lại tri thức, minh triết ấy đâu rồi; tri thức cũng mất rồi, chỉ còn lại thông tin, tri thức ấy đâu rồi…”.

T. S. Eliot, giải thưởng Nobel năm 1948, than vãn về tình trạng suy thoái của tri thức con người trong thế giới hiện đại (t. k. XX): minh triết biến mất, chỉ còn lại tri thức, tệ hại hơn nữa, đến tri thức cũng biến mất, chỉ còn lại thông tin. Minh triết khác tri thức ở chỗ nào? Minh triết cao hơn tri thức. Tri thức chỉ là tri thức. Minh triết vượt siêu tri thức, gắn với những giá trị tâm linh và nhân văn bằng cả trí tuệ và tâm hồn. Platon, Epicure, Epictete, Boece… là những triết gia lớn nhưng nhiều trích dẫn trong tác phẩm của họ được đưa vào Kinh Thánh Minh triết, vì những tri thức và tư tưởng của họ thực sự là minh triết, chúng được gắn với những giá trị lớn không chỉ bằng trí tuệ mà bằng cả tâm hồn.  

Minh triết do xu hướng cân bằng, hài hoà gắn với lương tri, gần với sự biết điều. Lương tri giúp những thức giả kịp thời thoát khỏi sự cuốn hút của những mê sảng lý thuyết. Sự biết điều giúp ta biết thế nào là “đủ”, đến đâu thì “dừng lại”. Do những đặc tính này, minh triết là một vị thuốc tốt ngăn ngừa những sự liều lĩnh và điên rồ(1). Bản tính của con người là dễ nhầm lẫn và điên rồ. Trong các cuộc cách mạng, bắt đầu từ Cách mạng Pháp 1789, không thiếu gì những sai lầm giống như sự điên rồ... Một nguyên nhân của những sự điên rồ là bệnh súng sính lý thuyết và tiếp theo là sự riết róng và hăng máu lý thuyết, những “máu” này càng nổi dậy và bốc lên cùng với sự đấu tranh phe phái. Mà như chúng ta biết “lý thuyết nó có thể chịu đựng bất kỳ sự mê sảng nào” (Maiakovxki). Trong hoàn cảnh nước ta nên chú ý đến ý kiến sau đây của Vũ Trọng Phụng: “Thật thế, tôi tin rằng Đại Cồ Việt ta là cái đất cằn cỗi, những lý thuyết và tư tưởng ở đâu đâu, tốt đẹp thế nào mặc lòng, cũng cứ đến đây là thối nát. Tôi không tin dân An Nam ta lại có nổi một điều tín ngưỡng nào, một quan niệm chắc chắn gì…”(2). Ý kiến của Vũ Trọng Phụng là cực đoan, nhưng không phải không có ít nhiều minh triết trong đó. Nói về những nhược điểm của Đảng, Hồ Chủ tịch nhấn mạnh: “…một trong những nhược điểm lớn là trình độ lý luận còn thấp kém”(3). Như vậy, có một điều chắc chắn tư duy lý thuyết không phải là chỗ mạnh của chúng ta. Đã thế thì súng sính, riết róng, hăng máu lý thuyết vừa thôi, phải quan tâm đến minh triết nhiều hơn nữa. Càng nhiều minh triết thì càng bớt mê sảng lý thuyết. Không cần nhìn đâu xa, trong các cơ quan của chúng ta, những thủ trưởng thông minh, tài ba, trình độ học vấn, lý thuyết xuất sắc vẫn có thể thất bại: họ có tất cả, chỉ thiếu minh triết, còn nơi nào những quyết định của thủ trưởng được hướng dẫn bởi minh triết, bởi lương tri và sự biết điều thì nơi ấy có sự ăn nên làm ra.

Tuy nhiên, cũng không nên tuyệt đối hoá vai trò của lương tri và sự biết điều. Minh triết cũng không hẳn là hoàn toàn đối lập với sự “điên rồ”.

“Vẫn có một góc điên rồ trong đầu óc của người minh triết nhất” (Aristote). Bậc hiền dẫu sao cũng là một con người, mà người nào chả có một góc điên rồ trong đầu.

“Kẻ sống không điên rồ đâu có minh triết như y tưởng” - Francois De La Rochefoucauld.

“Minh triết là điên tiết khi gặp hoàn cảnh đáng điên tiết” - Jean Cocteau.

“Hãy trộn một chút điên rồ vào minh triết, quên minh triết đi đôi khi lại là hay” - Horace

Tôi lấy câu trích dẫn sau cùng để kết luận mục này có bổ sung đôi chút: …quên minh triết đi, quên triết lý đi đôi khi lại là hay.

Phẩm giá minh triết ngày càng được những nhà cầm quyền và chính trị gia quan tâm. Thomas Jefferson (1743-1826), người khởi thảo bản Tuyên ngôn độc lập Hoa kỳ, một trong những người có công đầu khai quốc Hợp chủng quốc Hoa Kỳ đã trực tiếp đặt ra vấn đề quan hệ giữa minh triết và quyền lực: “Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta và dạy cho chúng ta rằng chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn” (thư viết ngày 12/6/1815).

Trong hơn bốn chục năm cầm quyền và hoạt động chính trị, Jefferson luôn đảm nhiệm những chức vụ quan trọng: đại biểu quốc hội, thống đốc tiểu bang, đại sứ ở Pháp, quốc vụ khanh, phó tổng thống, 2 nhiệm kỳ tổng thống Hoa Kỳ… Và điều thứ nhất, điều duy nhất mà Jefferson đòi hỏi ở nhà cầm quyền, ở chính trị gia, đó là minh triết, ở họ minh triết phải tương xứng với quyền lực: “Tôi hy vọng rằng minh triết của chúng ta sẽ lớn lên cùng với quyền lực của chúng ta”… Nhà chính trị lỗi lạc Jefferson đồng thời cũng là một nhà văn hóa xuất sắc: ông là nhà triết học, nhà giáo dục, nhà khoa học, là kiến trúc sư, là nhạc sĩ, văn sĩ… Jefferson tự xem mình là một nhà văn hóa, ông mong muốn hậu thế nhớ đến ông như là tác giả bảnTuyên ngôn độc lập Mỹ, tác giả pho tượng Tự do tôn giáo ở Virginia, người cha của Đại học tổng hợp Virginia. Và cuối cùng thì nhà văn hóa Jefferson đặt minh triết lên trên hết, trên cả triết học, khoa học, tôn giáo và những hệ tư tưởng khác…

Suy nghĩ về điều mà minh triết dạy cho Jefferson: “càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực… càng lớn” không thể không liên tưởng đến minh triết Vô vi vủa Lão Tử. Trong Đạo đức kinh vô vi đối lập với hữu vi dễ bị hiểu lầm như là sự đối lập giữa không (làm) và có (làm), thực ra đây là sự đối lập giữa hai cách làm. Hữu vi là làm theo cách can thiệp chủ quan (cậy quyền lực một cách vũ đoán, thô bạo), không coi trọng sự phát triển tự thân, tự nội lực của bản thân sự vật, và vô vi là làm theo cách không can thiệp chủ quan, trước sau tôn trọng và nương vào sự tự phát triển của nội giới, nội lực của sự vật. Hiểu như vậy thì “vi vô vi” (th. 63) là làm mà không can thiệp chủ quan, “sự vô sự” (th. 63) là làm mà “không đa sự (phiền hà)”, “không sinh sự”… và câu danh ngôn “vô vi nhi vô bất vi” có thể hiểu là: không làm (theo cách chủ quan, cậy quyền vũ đoán…) thì chẳng có việc gì là không làm”. Trong minh triết Đông Á, cách làm “vô vi” quán xuyến từ việc giáo dục đạo đức đến việc trị dân. Trong quan niệm của Mạnh Tử (xem Mạnh Tử, II, A, 2) muốn bồi dưỡng khí hạo nhiên và đạo đức cho ai đó thì “đừng có hấp tấp, cầu cho mau xong… mà nong sức trưởng thành…”, đừng có làm như người nước Tống kia “lo lắng đám mạ của mình chẳng lớn bèn lấy tay mà nhổ lên từng cọng”. “Không hấp tấp nong sức trưởng thành…” cũng như “nhổ cỏ mọc xen đám mạ” để mạ tự mọc lên, đó chính là vô vi. Trong việc trị dân cũng vậy, Lão Tử đặc biệt quan tâm đến nội giới, nội lực ở bản thân người dân. Lời của thánh nhân (minh triết) [xem th. 57]: “ngã vô vi nhi dân tự hóa… ngã vô sự nhi dân tự phú…” (…ta không làm [theo cách can thiệp chủ quan, cậy quyền vũ đoán], vậy thế mà dân tự cải hóa…, ta không làm [theo cách đa sự, sinh sự] vậy thế mà dân tự phú túc…). Như vậy “vô vi” không có nghĩa là “không làm”. “Nếu vô vi là không làm gì cả thì Lão Tử đã không viết Đạo đức kinh ra làm gì!” (Nguyễn Duy Cần)(4). Vô vi là một cách làm biết nương theo cái “tự nhiên” của sự vật, tức là sự phát triển của nội lực sự vật, không nôn nóng cậy quyền lực, để can thiệp một cách chủ quan, vũ đoán. Hiểu như vậy thì minh triết vô vi của Lão Tử gần với minh triết của Jefferson nghiệm ra rằng “chúng ta càng ít sử dụng quyền lực thì quyền lực của chúng ta càng lớn”.

Trong lịch sử dựng nước và giữ nước của chúng ta minh triết “vô vi” sớm được nêu lên. Vua Lê Đại Hành (941-1005) thường mời Thiền sư Pháp Thuận (916-991) vào triều bàn việc chánh trị và ngoại giao và xem sư như là Quốc Sư. Một lần vua Đại Hành hỏi về vận nước, sư Pháp Thuận bèn dâng một bài kệ:

Quốc tộ như đằng lạc, / Nam thiên lý thái bình. / Vô vi, cư điện các, /Xứ xứ tức đao binh.

Dịch thơ:

Vận nước như mây quấn/ Trời Nam mở thái bình/ Vô vi trên điện các/ Xứ xứ hết đao binh
                                                            (bản dịch thơ trích dẫn từ Wiki Phật giáo)

Đại ý 2 câu cuối của bài kệ được giảng là: “Nhà Vua ung dung vô vi ngự nơi đền các, mọi chốn đều tắt binh đao”. Có thể triển khai ý 2 câu này như sau: “Mọi chốn đều tắt binh đao” có nghĩa là mọi chốn trời Nam đều “mở thái bình”, “thái bình” có nghĩa là không có đấu đá, xâu xé, đâm chém lẫn nhau, ví “dân tự hóa” (bớt tham, sân, si), vì “dân tự phú” (thoát cảnh nghèo đói)…; do đâu mà “mở thái bình”? Đến đây có thể lấy lại câu của Lão Tử, vì vua “vô vi mà dân tự hóa”, vì vua “vô sự mà dân tự phú”.

Không thể khác được nghiên cứu minh triết ở Việt Nam bắt đầu bằng sự tổng kiểm kê và sưu tầm bổ sung những viên ngọc quý của Minh triết hiện đương rải rác khắp nơi. Chỉ có những viên ngọc quý trong ca dao tục ngữ là được sưu tầm tương đối đầy đủ, tuy vậy chưa được nghiên cứu sâu sắc ở “mặt cắt” minh triết, vả chăng vẫn còn sót ca dao tục ngữ của những dân tộc anh em. Còn minh triết của Đạo Phật (trong tâm tưởng những tín hữu phật giáo xưa và nay)? Minh triết của Thiên chúa giáo (trong tâm tưởng những tín hữu công giáo và đạo Tin lành Việt Nam)? Minh triết của đạo Hồi (trong văn hoá và lối sống của người Chăm)? Minh triết của đạo thờ cúng tổ tiên?… Nho giáo đã được nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được chắt lọc ở bình diện minh triết. Câu nói hiền minh của nho gia Ngô Thời Sĩ được dẫn ở phần trên rất tiếc là không mấy người Việt biết đến, những người hiện nay đương làm công tác tư tưởng, công tác tuyên giáo không biết đến nó lại càng đáng tiếc! Minh triết của Đạo giáo đã được những học giả nghiên cứu khá sâu nhưng chưa được phổ cập. Một vấn đề nữa rất đáng được quan tâm là: những viên ngọc quý trong văn hoá và lối sống các dân tộc anh em hầu như chưa được khai thác và quảng bá. Cuối cùng có một vốn minh triết nữa rất quan trọng: đó là những suy nghĩ, những bài học minh triết được rút ra từ hoạt động của những người hoạt động chính trị và xã hội, những người làm công tác lãnh đạo, quản lý, những doanh nhân, những người hoạt động tôn giáo - họ là những người trực tiếp và thường xuyên vật lộn với thực tiễn Việt Nam. Nói đến minh triết của những người làm lãnh đạo quản lý, không thể quên được minh triết của những người vẫn được gọi là “quần chúng”. Họ là những người bình thường trong sĩ, nông, công, thương và từ những suy ngẫm và kinh nghiệm làm ăn, nghề nghiệp và kinh doanh của họ có thể rút ra những viên ngọc minh triết quý.

Tóm lại, minh triết văn hóa Việt có nhiều nguồn. Trong thời đại Hồ Chí Minh, minh triết Hồ Chí Minh với sức thấm sâu, lan tỏa rộng trong lòng dân là một nguồn trung tâm trong đa nguồn minh triết Việt.

Làm tốt công việc sưu tầm và tổng kiểm kê, lần đầu tiên chúng ta có thể hình dung được đầy đặn vốn minh triết phong phú và đa dạng tàng trữ trong trí tuệ và tâm đức Việt Nam. Lịch sử tư tưởng Việt Nam, lịch sử văn hoá Việt Nam có thêm một căn cứ tham chiếu. Đây là đóng góp về mặt học thuật.

Công việc sưu tầm và tổng kiểm kê còn có tác dụng về mặt thực tiễn. Đứng trước cái vốn tinh thần to lớn này, như soi vào một tấm gương lớn và sáng, người theo đạo Phật cũng như người đạo Thiên chúa, người Ê đê Tây Nguyên cũng như người Tày Đông Bắc, người Chăm cũng như người Thái… họ đều thấy minh triết của mình trong đó, sự góp phần của họ vào cái vốn trí tuệ và đạo đức chung của toàn dân tộc. Vốn này là một cơ sở tinh thần quan trọng để thực hiện sự đoàn kết tôn giáo, sự đoàn kết các dân tộc anh em, sự đoàn kết toàn dân sĩ, nông, công, thương trong và ngoài nước. Ngoài ra, vốn minh triết to lớn này mới có đủ sức mạnh để gây ở chúng ta ý thức về minh triết. Ý thức này khiến chúng ta nhậy cảm hơn với minh triết ở cuộc sống xung quanh ta và bản thân ta. Một tác động quan trọng nâng cao sự tự giác trong đời sống tinh thần.

Minh triết trong vốn trí tuệ và tâm linh của chúng ta không tách rời minh triết nhân loại bao gồm minh triết của nhiều nền văn minh, nhiều khu vực văn hóa, tôn giáo… Ngay trong bản thân minh triết lưu hành ở Việt Nam có thể tìm thấy nhiều vết tích vang vọng của minh triết những nền văn hoá, văn minh khác. Người Việt không thể không tìm hiểu minh triết của những nền văn hoá khác. Công việc này giúp chúng ta thấy được rõ hơn, tinh tế hơn bản sắc riêng của mình. Đồng thời thấy được tính phổ quát của minh triết, thấy được cái chung giữa ta và người. Cũng có thể xem đây là một sự chuẩn bị tinh thần đi vào con đường hội nhập.

Minh triết bao giờ cũng gắn với những giá trị. Chúng tôi dành phần kết luận của bài này để nhấn mạnh một giá trị căn cốt của minh triết mọi nơi và mọi thời: “nói đi đôi với làm”. Đây là giá trị của những giá trị: không có nó, tất cả những giá trị khác khó mà bền vững và dù cao siêu, tốt đẹp đến đâu, dễ trở thành “nói suông”, tức là số không. “Nói đi đôi với làm” là một giá trị hằng hữu của minh triết Hồ Chí Minh.

Từ năm 1927, trong cuốn Đường cách mệnh của Nguyễn Ái Quốc, trong 23 điều phải có về tư cách của người cách mệnh thì điều thứ 10 là “Nói thì phải làm”. Điều thứ 10 này đã được nhấn mạnh bằng mệnh lệnh thức. Trong cuốn “Sửa đổi lối làm việc” (1947) quan hệ phải có giữa “nói và làm” được khẳng định thông qua quan hệ phải có giữa “lý luận và thực hành”:

- “Lý luận phải đem ra thực hành…”

- “Lý luận cũng như cái tên (hoặc viên đạn). Thực hành cũng như cái đích để bắn. Có tên mà không bắn, hoặc bắn lung tung thì cũng như không có tên”.

- “Lý luận cốt áp dụng vào thực tế. Chỉ học thuộc lòng, để đem lòe thiên hạ thì lý luận ấy cũng vô ích”.

Giữa nói và làm Hồ Chí Minh nhấn mạnh vào “làm”:

- …“miệng nói, tay làm”… “Phải thật thà nhúng tay vào việc”.

- “Nói ít, làm nhiều”.

- “Các việc đáng làm, thì có khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được”.

- “Nói miệng, ai cũng làm được. Ta cần phải thực hành…”.

- “Trong Đảng ta, có một số người… chỉ biết nói là nói, nói giờ này qua giờ khác, ngày này qua ngày khác. Nhưng một việc gì thiết thực không làm được. Những người như thế cũng không thể dùng vào công việc thực tế…”

Bác đã nói thì làm. Và làm thực sự.

Ngay sau Cách mạng, nạn đói vẫn đe dọa. “Với cương vị Chủ tịch nước, Bác kêu gọi: “…Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước, và tôi xin thực hành trước: cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn 3 bữa. Đem gạo đó (mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo…”. Chuyện kể rằng có một lần Tiêu Văn - trung tướng trong quân đội Tưởng Giới Thạch - mời chiêu đãi Bác đúng vào bữa cơ quan nhịn ăn để cứu đói. Khi Bác dự tiệc về, anh em báo cáo với Bác rằng phần gạo của Bác đã cho vào hũ gạo cứu đói rồi. Vậy mà Bác vẫn quyết định “nhịn bù” một bữa vào ngày hôm sau”(5).

Hồ Chí Minh đặt cao yêu cầu làm gương mẫu cho mọi người noi theo: “một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền” (Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1, tr. 253). Chúng ta đều biết chỉ qua hành động, qua “nhúng tay vào việc”, qua lăn lưng ra làm mới trở thành gương mẫu. Xưa nay chưa có ai chỉ bằng “lời nói” mà trở thành gương mẫu. Có một mối liên hệ sâu sắc giữa tư tưởng phát huy sức cảm hóa của những “tấm gương sống” và tư tưởng biểu dương “người tốt, việc tốt” của Hồ Chí Minh. Những “tấm gương sống”, những “người tốt” có sức thuyết phục hồn nhiên và sâu sắc vì họ là hiện thân của công việc, của lao động, của thực hành, của “miệng nói tay làm”, của “nói ít làm nhiều”, họ là sự hiện thân của minh triết Hồ Chí Minh. Mục “Chân dung Người đương thời” trên VTV1 có sức hấp dẫn mạnh mẽ vì qua đây, khán giả tiếp xúc với những con người sống động, mỗi người một vẻ, một cảnh ngộ nhưng tất cả đều bị cuốn hút bởi công việc mình làm, đều mải mê tìm tòi, sáng tạo, đều kiên trì chí hướng, “có khó mấy cũng cố chịu quyết làm cho kỳ được”. Minh triết Hồ Chí Minh được sáng tỏ trong mục Truyền hình này hơn đâu hết: “Một tấm gương sống còn có giá trị hơn một trăm bài diễn văn tuyên truyền”. Để học tập tư tưởng, đạo đức của Bác trước hết cần tìm hiểu con người, cuộc đời và những câu nói của Bác. Nhưng không thể quên minh triết Hồ Chí Minh đương biểu hiện ngời sáng ở ngàn vạn “tấm gương sống” và “người tốt, việc tốt” đương xuất hiện khắp nơi trên đất nước, không kể trước đây họ từng ở phía nào của chiến tuyến. Số đông trưởng thành và được tôi luyện trong thực tiễn của cuộc Cách mạng mà Hồ Chí Minh là người thiết kế và người đôn đốc gây dựng, họ phải giải quyết những nhiệm vụ mà lịch sử Việt Nam bốn ngàn năm chưa từng đặt ra, những hậu quả của những tai họa mà Lịch sử (hay là Số phận?) giáng xuống đầu họ, những nhiệm vụ mà họ phải chèo chống giữa phong ba bão táp của lịch sử trong khi người thuyền trưởng lão luyện không còn nữa… Họ giống như những Sisyphus phải vần lên đỉnh núi những tảng đá nặng gấp ngàn lần sức lực của họ. Hòn đá to. Hòn đá nặng. Một người không vần nổi thì 3 người…, 3 trăm người…, 3 vạn người…, 3 triệu người… Cuối cùng, khác với nhân vật huyền thoại, họ đã hoàn thành nhiệm vụ. Có khi chính họ là Hồ Chí Minh mà không tự biết.

H.N.H
(249/11-09)


----------------
(1) Ý này được rút ra từ hai danh ngôn:
- “Quà tặng minh triết được ban như là một vị thuốc trị sự diên rồ” St.  Gregory I
-“ Đặc tính của minh triết là không làm những việc liều lĩnh” David Thoreau
(2) Vũ Trọng Phụng. Truyện ngắn.  N. x. b.  Hội nhà văn.  1996. tr.  237-238
(3) Xem Hồ Chí Minh. Toàn tập.  ST, 1987, tập7. tr. 782
(4) Xem Lão tử.  Đạo đức kinh.  Nguyễn Duy Cần dịch và bình chú.  N. x. b.  Văn học. 1992, tr. 21
(5) Dẫn từ bài của Phạm Minh Khải,  Hậu Giang On Line,  số ra ngày 17/03/08



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGÔ THỜI ĐÔN        (Phiếm luận)Đọc Đoạn trường tân thanh của Nguyễn Du, đến đoạn kết thúc phiên tòa báo ân, báo oán, người hay trắc ẩn thì thấy nhẹ nhõm, người cả nghĩ thì thấy vợ chồng Thúc Sinh- Hoạn Thư thoát nạn mà thán phục sự tế nhị của Nguyễn Du.

  • TRẦN ĐÌNH SỬTrong sách Phê bình văn học thế kỷ XX tác giả Giăng Ivơ Tađiê có nói tới ba bộ phận phê bình. Phê bình văn học ta hiện nay chủ yếu cũng có ba bộ phận ấy họp thành: phê bình báo chí, phê bình của các nhà văn nhà thơ và phê bình của các nhà phê bình chuyên nghiệp.

  • ĐÀO THÁI TÔNTrong bài Mê tín dị đoan trên chuyên mục Tiếng nói nhà văn (Văn Nghệ số 52 (2032), ngày 26 - 12 - 1988), nhà văn Thạch Quỳ thấy cần phải "phân định cho được văn hóa tâm linh, văn hóa nhân bản, văn hóa tín ngưỡng để phân biệt nó với mê tín dị đoan".

  • NGUYỄN THỊ XUÂN YẾNLà một nội dung mở, tín hiệu thẩm mỹ (THTM) đã và đang được nhiều nhà nghiên cứu khoa học quan tâm, đặc biệt là các nhà nghiên cứu văn học đã bàn luận khá rộng.

  • ĐẶNG VIỆT BÍCHTrong mười hai con giáp, từ lâu, người ta đã nhận thấy chỉ có mười một con là động vật có thật, được nuôi trong gia đình, là gia cầm (như gà - dậu), là gia súc (trâu - ngưu) hoặc động vật hoang dã (như hổ - dần)... Còn con Rồng - Thìn thì hoàn toàn là động vật thần thoại.

  • Vừa qua tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị Dịch thuật Giới thiệu Văn học Việt Nam ra thế giới, quy tụ trên một trăm dịch giả trong và ngoài nước đến từ hàng chục quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau như Pháp, Mỹ, Đông Âu, Trung Quốc... Đây được xem là bước khởi đầu cho việc quảng bá tốt nhất văn học Việt ra thế giới.

  • NGUYỄN THANH HÙNGTiếp nhận văn học thực sự diễn ra dưới ảnh hưởng của đặc điểm cuộc sống trong cộng đồng lý giải tác phẩm. Có được ý nghĩa phong phú của văn bản nghệ thuật là nhờ sự tiếp nhận của các thành viên độc giả tạo ra. Chính những ý nghĩa ấy chứ không phải bản thân văn bản, thậm chí không phải cả dụng ý của tác giả là điểm khởi đầu cho "chiều dài thương lượng" về giá trị của tác phẩm văn học trong lịch sử.

  • HỮU ĐẠTKhi giảng dạy thơ ca của bất cứ nhà thơ nào, ngoài những bài được đưa vào sách giáo khoa việc giới thiệu thêm những bài thơ khác trong sự nghiệp sáng tác của tác giả là rất cần thiết. Tuy nhiên, khi giới thiệu cần có những cách phân tích và đánh giá đúng đắn mới phát huy được việc mở rộng kiến thức cho học trò. Nếu không sẽ gây ra những tác dụng ngược lại.

  • HOÀNG TẤT THẮNG         (Vì sự trong sáng tiếng Việt)

  • ĐẶNG MẬU TỰU- PHAN THANH BÌNH5 năm hoạt động mỹ thuật sôi nổi, đầy trăn trở và suy nghĩ đã trôi qua, Phân- Chi hội mỹ thuật Thừa Thiên Huế đã có nhiều cơ hội để nhìn lại đánh giá những gì mà mình đã làm được.

  • VŨ ĐỨC PHÚCChữ Hán trong hàng chục thế kỷ là chữ dùng chính thức của quốc gia Việt . Trong các thế kỷ ấy văn thơ chữ Hán khi thì là văn thơ duy nhất, khi thì là bộ phận chủ yếu hoặc quan trọng, không thể thiếu, của lịch sử văn học Việt bên cạnh văn thơ chữ Nôm.

  • PHẠM QUANG TRUNGHội Nhà văn Việt Nam, bên cạnh tính chính trị- xã hội, trước hết là một tổ chức nghề nghiệp. Muốn có sức mạnh, cơ cấu và hoạt động của Hội phải tương thích với đặc thù nghề viết văn.

  • NGUYỄN VĂN HOASuốt những năm phổ thông, do phải kiểm tra hoặc phải thi cử nên bắt buộc tôi phải thuộc các bài thơ có vần trong sách giáo khoa. Trên ba mươi năm rồi tôi vẫn thuộc những bài thơ đó. Mặt khác thời tôi học phổ thông ở vùng Kinh Bắc hiệu sách có rất ít sách thơ bán và lúc đó cũng không có tiền để mua. Nguồn duy nhất là sách giáo khoa.

  • VÕ TẤN CƯỜNGLịch sử văn minh của nhân loại đã trải qua những phát kiến, khám phá vĩ đại về khoa học kỹ thuật và vũ trụ nhưng sự bí ẩn của tâm linh con người thì vẫn luôn là thách thức chưa thể giải mã.

  • Mối quan hệ của Chủ nghĩa Siêu thực với hội họa vẫn là một câu hỏi chưa được sáng tỏ, vấn đề khó khăn này đã được các nhà lịch sử mỹ thuật hé mở hơn khi chú ý ở khía cạnh hình tượng xảy ra trong các giấc mơ và coi đó là một hành vi đặc biệt của “phong cách” nghệ thuật hiện đại.

  • Cách đây vài hôm, tôi nói chuyện với một vị nữ tiến sỹ ở Viện nghiên cứu văn hoá nghệ thuật. Bà là một trưởng phòng nghiên cứu có thâm niên, rất thông thái về văn hoá. Trong lúc vui chuyện tôi nói rằng mình có ý định tìm hiểu về mối quan hệ giữa văn hoá và ngôn ngữ. Bà bảo không thể đặt vấn đề như vậy, vì ngôn ngữ là một thành tố của văn hoá.

  • TRẦN HUYỀN SÂMVăn học là dòng sông chở đầy dư vị của cuộc đời, mà văn hóa là một trong những yếu tố kết tinh nên hương sắc ấy.

  • LÊ ĐẠTTình không lời xông đất để sang xuânTrước hết xin giải quyết cho xong một vấn đề đã được giải quyết từ rất lâu tại các nhà nước văn hóa phát triển.

  • HỮU ĐẠTMột trong những đặc điểm dễ nhận thấy về phong cách Nguyễn Du trong Truyện Kiều chính là tính sáng tạo qua việc dùng từ. Có thể bàn đến nhiều trường hợp khác nhau, trong đó chữ Xuân là một ví dụ khá điển hình.