Luận bàn về đôi đũa trong nghệ thuật ẩm thực Việt Nam

15:20 24/02/2010
NguyỄn Thu TrangNghệ thuật ẩm thực của người Việt đã góp phần tạo nên bản sắc văn hóa Việt . Bàn về ẩm thực và những gì liên quan thì quá rộng, thế nên ở đây chúng tôi chỉ mạn phép bàn đến một khía cạnh nhỏ của nó mà thôi.

Ảnh: vietnamfood.vn

Mặc dù nhiều nước cũng dùng đũa nhưng đôi đũa Việt mang hồn Việt . Nhưng quả thật cả kẻ đi xa lẫn người ở gần đã mấy ai chú tâm đến đôi đũa Việt . Vâng, trong khuôn khổ của bài viết này tôi chỉ muốn nói đến một khía cạnh nhỏ về văn hóa đũa và nghệ thuật dùng đũa của người Việt .

Đũa Việt có nhiều loại khác nhau dựa vào công dụng của đũa như đũa thường, đũa xới cơm, đũa dùng để xào nấu, đũa ăn, đũa xắn bánh hay đũa để cho người chết... Cha ông ta có câu: “ Đũa mốc đâu dám chòi mâm son” rồi thì đũa sơn son thiếp vàng để dành cho vua chúa, các bậc vương giả, dân đen thì dùng đôi đũa tre mộc mạc trong bữa ăn. Phải chăng, chính đôi đũa cũng phần nào nói lên địa vị của con người trong xã hội thời phong kiến. Người Việt còn gửi gắm tâm tư tình cảm của mình qua đôi đũa trong những câu văn, lời thơ dân gian, như là:

            “ Bây giờ chồng thấp vợ cao
            Như đôi đũa lệch so sao cho bằng”
hay:
            “ So bó đũa chọn cột cờ”
hoặc:
            “ Vợ dại không hại bằng đũa vênh”.

Sự so sánh thật dễ hiểu, dễ nhớ nhưng chứa đựng bao nét văn hóa Việt bởi sự giản dị, gần gũi của vật được so sánh là đôi đũa dùng hàng ngày.

Có lẽ đũa xưa và nay chẳng khác nhau là mấy về hình dáng. Có chăng chỉ bởi với cuộc sống hiện đại, nó đã được làm bằng nhiều chất liệu khác nhau mà thôi. Và ngày nay người ta cũng ít phân biệt sang hèn qua đôi đũa của từng gia đình. Tôi nhớ lại ngày xưa, khi tôi còn bé thơ, đã từng được chứng kiến bà tôi ngồi vót đũa khi tiết xuân về, ấy là khi tết đến. Bà thường chọn khúc tre già nhưng không phải loại tre ngâm vì sợ có mùi, để vót đũa. Bà rất kiêng để chị em tôi đánh gãy đũa vào đầu năm mới. Người ta còn kiêng đánh gãy đũa vào ngày cưới xin, ngày tân gia, ngày khai trương... Bà bảo như thế sẽ xui xẻo cả năm, công việc sẽ không thuận lợi. Vì thế trong những ngày ấy sẽ phải có một người có kinh nghiệm, uy tín, cẩn thận kiểm tra đũa, nhất là đôi đũa dùng cho người chủ trì trong đám đó. Bà tôi vót đũa rất khéo. Những lúc ấy bà thường căn dặn tôi rằng: đầu đũa nhỏ để xuống dưới, đầu to hướng lên trên. Lúc đó tôi không hiểu gì cả. Đến giờ tôi mới biết hết ý nghĩa của nó. Người Việt ta vốn có truyền thống tôn trọng người lớn tuổi trong gia đình, sống theo một tôn ty trật tự trên bảo dưới nghe. Trong bữa cơm, trẻ nhỏ thường có nhiệm vụ so đũa cho cả gia đình và trước tiên phải so cho người lớn tuổi nhất nhà, hoặc cho  khách qúy của gia đình, sau đó lần lượt từng người trong gia đình. Người ta cũng rất tránh gặp phải đôi đũa lệch khi ăn. Sau khi ăn xong đũa phải được rửa sạch và phơi khô ngoài nắng chống việc ẩm mốc để dành cho bữa sau. Còn bây giờ trong một số gia đình người ta đã sử dụng đũa ăn một lần rồi bỏ đi, ấy là vì để giữ gìn vệ sinh theo lối sống của khách du lịch quốc tế. Đây cũng là một việc làm rất tốt nhưng xét ở khía cạnh kinh tế của người Việt ta còn chưa cho phép. Tuy nhiên, không vì thế mà ta cho rằng cách dùng đũa của dân ta là không sạch sẽ. Ca dao xưa có câu “ Bát sạch ngon cơm”, chứ chưa ai nói “ đũa sạch ngon cơm” nhưng thử hỏi nếu chỉ có bát sạch mà không có đũa sạch thì bữa cơm ấy có còn ngon gì.

Quả thật, dùng đũa trong bữa ăn là một nét văn hóa- văn hóa ẩm thực của người dân tộc ta. Tre Việt hay đũa Việt cũng vậy là một phần của bản sắc dân tộc Việt .

Với cách nhìn mang tính triết luận, ta sẽ thấy đũa luôn luôn đi có đôi. Điều ấy đâu chỉ bởi vì nó dễ dàng trong việc sử dụng mà nó còn mang một giá trị văn hóa sâu xa. Âm- dương kết hợp tạo sự cân bằng trong xã hội: đũa vợ đũa chồng tương xứng lứa đôi. Ngày còn đi học i tờ tôi đã được nghe câu chuyện về một ông bố đã gọi đàn con của mình đến và đố chúng bẻ hết bó đũa. Từng chiếc đũa tuy rất nhỏ đấy, ấy thế mà khi bó chung vào lại tạo thành một sự đoàn kết rất bền vững như sức mạnh đồng lòng của một đoàn quân.

Trẻ nhỏ cũng dần dần được mẹ dạy cho cách cầm đũa khi ăn và khi đã nhắm mắt xuôi tay, trong đám ma đó cũng có đôi đũa vót với bát cơm quả trứng ném theo huyệt người đã mất và suốt bốn chín ngày sau đó vẫn phải có bát cơm, đôi đũa, quả trứng, muối... cho người đã khuất. Nói thế để thấy đũa cũng chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống của chúng ta như là một vật dụng không thể thiếu, không thể quên.

Trong nền văn minh hiện đại như ngày nay, cùng với sự thay đổi của cuộc sống thì đũa vẫn tồn tại, vẫn mang bản sắc dân tộc và vẫn mộc mạc, giản dị đến thế. Người phương Tây dùng thìa rĩa, người Ân Độ lấy tay để bốc thức ăn. Người Trung Quốc cũng dùng đũa nhưng chắc chắn đũa của họ sẽ mang bản sắc, đặc trưng Trung Quốc. Đâu phải dễ gì mà một ông Tây mũi lõ có thể khéo léo cầm đôi đũa để gắp quả cà pháo giòn tan kia ăn cùng với rau muống chấm tương Bần hay bát canh cua đồng. Cho dù có đi nơi đâu, trong tiềm thức của người Việt chắc rằng vẫn còn giữ được trong lòng những đồ vật đơn sơ, giản dị mang đậm đà bản sắc quê hương với những món ăn cổ truyền dân tộc.

Phải chăng tôi đã quá lời khi đã bàn luận đến đề tài này? Nhưng Việt , tổ quốc trong tôi đẹp từ những vật nhỏ đó cũng như con người Việt đẹp thay vẻ đẹp giản dị, mộc mạc.

N.T.T
(131/01-2000)



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)

  • HÀ VĂN LƯỠNG 1. Trên hành trình của văn học Việt Nam hiện đại mà nói rộng ra là văn học Việt Nam thế kỉ XX, bên cạnh việc phát huy và giữ gìn bản sắc và những truyền thống văn hóa dân tộc thì nhu cầu giao lưu, tiếp thu văn học nước ngoài, đặc biệt là văn học phương Tây để góp phần hiện đại hóa nền văn học dân tộc trở thành một nhu cầu cần thiết.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHVấn đề bản sắc địa phương trên tạp chí văn nghệ tỉnh nhà chúng ta đã có dịp bàn bạc, trao đổi nhưng chưa ngã ngũ. Có lẽ trong trường lực báo chí, tờ văn nghệ vẫn là chỗ nhạy cảm nhất về phương diện văn hóa. Hẳn nhiên, trong địa hạt ấy, tờ văn nghệ cũng là nơi khả kiến nhất về phương diện nghệ thuật. Câu hỏi đặt ra ở đây là bản sắc địa phương của tờ báo được xét theo phương diện nào? văn hóa hay nghệ thuật?

  • THANH THẢOCâu trả lời có vẻ đơn giản: văn học là... văn học. Nhưng trả lời như thế chính là đặt tiếp một câu hỏi, và lại một câu hỏi nữa, mà câu trả lời đâu như còn thấp thoáng ở phía trước.

  • TRẦN THỊ THANHĐặng Huy Trứ là một trong những gương mặt nổi trội của các nhà trí thức lớn Việt Nam ở thế kỉ XIX. Tài năng và trí tuệ tuyệt vời đã hội tụ trong con người ông.

  • NGUYỄN XUÂN HÒA Ưng Bình Thúc Giạ thị (1877 -1961) và Thảo Am Nguyễn Khoa Vi (1881 - 1968) là hai nhà thơ Huế giàu tài năng sáng tác vừa có mặt chung, mặt riêng, phản ảnh cuộc sống xứ Huế được nhân dân mến mộ, khâm phục.

  • ĐỖ ĐỨC HIỂU* Thưa ông, qua hai tác phẩm gần đây nhất của ông, tôi được biết ông quan tâm nhiều đến vấn đề Phê bình Văn học ở nước ta. Theo ý ông, Phê bình, Nghiên cứu Văn học ở Việt Nam những năm gần đây có biến đổi gì không? Hay nó dậm chân tại chỗ như một vài người đã nói?

  • PHONG LÊIĐến với tôi một nhận xét: Đại hội nhà văn lần thứ VI, tháng 4- 2000, do việc bầu đại biểu từ 8 khu vực, nên vắng hẳn đi những người có thâm niên nghề nghiệp cao. Đặc biệt là những vị có sự nghiệp đáng trọng trên các lĩnh vực khoa học xã hội và nhân văn, những người có vị thế bậc thầy trên nhiều phương diện của kiến thức đối với các thế hệ viết trẻ.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN(Tiếp theo Sông Hương số 253 tháng 3/2010)

  • HỒ THẾ HÀNhìn vào tiến tình văn học đương đại Việt Nam, căn cứ vào các giải thưởng văn học, các hiện tượng văn chương nổi bật trong hơn hai thập kỷ qua, - so trong tương quan các thể loại, nhiều người không khỏi lo lắng và lên tiếng báo động về sự xuống cấp của thơ.

  • TRẦN THIỆN KHANHSau chiến tranh khoảng 10 năm, đất nước có nhiều chuyển biến quan trọng. Các nhà văn đủ mọi thế hệ nghĩ và viết trong một bối cảnh mới. Song họ vẫn chưa thoát khỏi những yêu cầu của đoàn thể, họ vẫn phải phục vụ một “biểu tượng xã hội về chân lí”(1) cái biểu tượng có tính giai cấp, tính chiến đấu, hoặc ít ra cũng có tính nhân dân và màu sắc dân tộc đậm đà đính kèm.

  • BỬU NAMThiên nhiên là “không gian sống” và “không gian tâm tưởng” của con người và thi sĩ phương Đông, nó đã lắng sâu trong vô thức của họ và đã trở thành một loại “không gian văn hóa” và là một hằng số quan trọng trong thơ ca phương Đông.

  • THANH THẢOMỗi nhà văn đích thực đều là mỗi nhà không tưởng ở những mức độ khác nhau. Tônxtôi là nhà văn vĩ đại, đồng thời là nhà không tưởng vĩ đại.

  • THU TRANG (Paris) Có thể từ đầu thế kỷ, do hoàn cảnh lịch sử, người Việt Nam đã tiếp cận văn hóa Pháp. Chúng ta phải công nhận phần ảnh hưởng phong phú do các luồng tư tưởng, quan niệm Tây phương đã tác động đến giới trí thưc và văn nghệ sĩ nhiều ngành.

  • NGUYỄN THẾ - PHAN ANH DŨNGCầm trên tay cuốn Truyện Kiều tập chú (TKTC), NXB Đà Nẵng, 1999, dày hơn 1000 trang của các tác giả Trần Văn Chánh, Trần Phước Thuận, Phạm Văn Hòa, chúng tôi thấy đây là một công trình nghiên cứu công phu, tập hợp và chọn lọc được một số chú giải của các học giả nổi tiếng.

  • FRANCOIS JULLIEN (Trích dịch ch. IV cuốn Đối thoại của Mạnh Tử với một triết gia Khai sáng)

  • HOÀNG NGỌC HIẾNTôi hào hứng đi vào đề tài này sau khi đọc bài tiểu luận của Tỳ kheo Giới Đức “Phật giáo có thể đóng góp gì cho minh triết Việt?”(1)

  • ĐÔNG LACon đường đến thành công thường rất khó khăn, với Nguyễn Quang Thiều ngược lại, dường như anh đã đạt được khá dễ dàng kết quả ở hầu hết các lĩnh vực sáng tạo văn chương.

  • TRẦN HUYỀN SÂMMỗi thời đại đều mang lại một quan niệm văn chương khác nhau. Đối với cha ông xưa, họ không hề có ý định lập ngôn, lại càng không chủ trương xây dựng cho mình một học thuyết có tính hệ thống.

  • CAO HUY HÙNGChủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là niềm tự hào của dân tộc Việt Nam mà cả bạn bè trên khắp thế giới đều giành tình cảm trân trọng đặc biệt đối với Người. J.Stésron là nhà sử học người Mỹ một trong số những người đã dày công tìm hiểu về Chủ tịch Hồ Chí Minh.