NGUYỄN KHẮC THẠCH
Lỡ chuyến đò có thể chờ chuyến đò sau. Lỡ mất cung có thể chuộc lại cung từ người nhặt được. Lỡ mất cái không biết tìm ở đâu đâu?
Minh họa: THẢO NGUYÊN
Tôi đã phải bàng hoàng khi chợt nhận ra mình bị mất cái không giữa đám đông ngồi phiếm chuyện “hao tài” cuối năm trong dịp đi dự đám cưới con một người bạn ở Sài Gòn. Ở đấy, mỗi người một kiểu liệt kê sự mất mát của nhà mình trong năm. Nào tiền, nào vật, nào nhà, nào đất, nào số đề, nào chứng khoán... ít nhiều đủ cả. Đến lượt, biết mình không mất gì (bởi không có gì để mất), tôi buột miệng “tôi bị mất cái không”! Mọi người nghe lớ ngớ. Tôi lơ đễnh cười bù. Nhưng chao ôi! Thì ra tôi đã lỡ để mất cái không mà mình có thật. Nếu còn nó thì tôi đã không hiện diện trong những cuộc hội hè bi hoan như thế. Cái không là gì? Chắc mỗi cấp độ thức nhận hẳn có cách nói riêng, ở đây trên bề mặt ngữ nghĩa của nó là không có gì ràng buộc, không có gì dính mắc, không có gì câu thúc bởi sự buông bỏ rốt ráo đến mức tàn nhẫn đối với mọi dục vọng cá nhân. Ai đó cũng đã nói rằng người ta chỉ có thể thỏa mãn dục vọng khi biết từ chối nó. Thuộc tạng người mang di tính hoài cổ, tôi thường bị dính vào vòng “tam cương, ngũ thường” của nho giáo mà trong đó chữ “tín” luôn sỗ sàng chi phối. Cũng vì nó mà tôi đã phải lăn lóc từ trò phù phiếm này đến cuộc duy tha khác. Chuyến đi ăn cưới ấy là một bằng chứng trung tín, bẽ bàng cho cái tôi mơ hồ ngộ sự. Tấm thiệp mời lung linh hạnh phúc đâu đó đã khúc xạ cái bệnh sĩ nghèo hèn tôi sang ngưỡng “tiến thoái lưỡng nan”. Bối rối, trù trừ, xoay trở mãi rồi tôi cũng được “ám trợ” ra đi với tư thế ngạo nghễnh trước một đại gia có quý nữ du học nước ngoài hồi hương trong lễ vu quy. Tôi hí hửng với món quà cưới sang là bức tranh của một danh họa đẳng cấp quốc tế. Lộ phí đi đường ngoài cặp vé bay khứ hồi Huế - TP Hồ Chí Minh còn thêm mấy gói mì chay ăn liền cũng đã tròm trèm tháng lương hưu. Quảng đường từ sân bay Tân Sơn Nhất về nhà bạn 15 cây số thì vô tư cuốc bộ miễn phí. Bình thường đi khoảng hai tiếng rưỡi nhưng lần này tôi đã phải lê lết gần bốn tiếng đồng hồ mới tới được. Số là tại đôi giày mượn - mượn đôi giày đẹp đi cho oai (đám cưới con đại gia mà!); ai dè khi đi thử thì vừa nhưng đến khi hành sự thì càng đi càng co bó rọ. Hai bàn chân bị cọ cứa xây xát, đau không chịu nổi, tôi đành cởi giày ra đi bằng đôi tất. Khi qua cầu Sài Gòn đúng vào giờ ngọ. Nắng ngùn ngụt mặt cầu. Đôi tất nilon bén nhựa đường khét lẹt. Đôi bàn chân bỏng rốp. Các tư thế nhón chân, nhích gót, lò cò đều được thị hiện trên đoạn cầu cong khúc nối qua sông không chịu lụy đò, qua đường không chịu “cúng” cho xe thồ... Rồi tôi cũng bước qua bĩ cực, qua sự bõ hờn trong niềm kiêu hãnh tự tin về món quà cưới mà mình đã nâng niu suốt chặng đường khốn quyện. Và giờ công khai lễ vật, quà tặng của thân quyến trước bái đường đã đến. Tôi thắc thỏm ngồi chờ. Một giọng đọc trọ trẹ của người bồi tế vang lên: “Dì B năm triệu, bác A hai trăm đô, chú C cặp nhẫn hai chỉ, cậu D một sợi dây chuyền nửa cây vàng tây...”. Tôi vừa nghe vừa nhẫm vừa so sánh. Lòng bỗng trào dâng niềm tự mãn: “Chưa ai bằng mình. Bức tranh này phải hàng ngàn đô. Ăn đứt đám kia rồi. Có lẽ họ để món quí nhất đọc sau cùng. Cũng như thi hoa hậu ấy mà. Người đoạt vương miện bao giờ cũng dành hạ màn chung cuộc cho thêm phần tò mò long trọng”. Rồi tiếp tục, tiếp tục, lại tiếp tục và cuối cùng “Quà của bác NKT ở Huế là tờ ảnh (bức tranh chứ - giọng người ghi sổ xen vào), ừ bức tranh. Cái này rất hợp với dịp năm mới sắp đến, kiếm lốc lịch dán treo lên tường cho đẹp (!). Sao? Họ nói gì vậy? Chữ tác đánh chữ tộ rồi! Họ coi bức tranh sang trọng như cái bìa lịch quèn ấy sao? Họ không hiểu biết hay có ý giễu cợt báng bổ mình? Từ hí hửng đến chưng hửng, tôi bàng hoàng lần nữa rồi lặng theo âm tần chữ tín...
Tôi đã bị tổn thương. Có lẽ đây là lần đầu tiên trong đời tôi cảm nhận được một cách sâu sắc về sự tổn thương của mình từ hệ lụy chữ tín. Tôi lần lần ám thị mình thoát ra khỏi nó. Thay vào đó là chữ tin. Thực ra giữa chữ tín và chữ tin xét về mặt từ loại thì cả hai đều là danh từ mà trong nội hàm của chúng đã có sự “xâm thực” lẫn nhau. Song, chữ tin nghiêng về hướng nội, là tĩnh. Chữ tín ngã qua hướng ngoại, là động. Chữ tín có quan hệ hai chiều, là nhị nguyên, là chấp trước, là thực dụng. Chữ tin thì tự bạch đơn phương, là bất nhị, không đối đãi, không vụ lợi. Nếu chữ tín là thuộc tính của tâm lí phóng chiếu các quan hệ thì chữ tin là thuộc tính của tâm linh ám thị một đối tượng. Vậy là hơn một lần tôi đã lạnh lòng với chữ tín. Và xin được y án “một lần bất tín vạn sự bất tin”. Trong tôi giờ chỉ còn là Tin. Một niềm tin hoang dã. Tin vào Đạo Trời. Tin vào Nhân Quả. Tin vào Cái Không. Không luôn luôn là cái đang là...
Tôi cơ hồ mình đã “đắc” cái không một cách ngẫu nhiên qua một cuộc thoại thỉnh an bề trên. Cũng rất tình cờ, tôi lại gọi Ngài đúng vào lúc 7 giờ sáng ngày 27 tháng 7 năm 2007. Chuông vừa đổ, đầu kia có ngay tiếng ngài hối: “Đang là giờ hoàng đạo nói ngay, chân lí chỉ một không hai, cuối cùng chân lí bằng mấy?”. Bị bất ngờ khiến tôi lúng túng nhưng trực giác kịp âm hao tựa như một thoại đầu hay một công án thiền gì đó. Đã vậy thì không được chần chừ, tôi bạch luôn: “Bằng không!” Lặng giây lát rồi ngài nói: “Bằng không là đúng rồi nhưng phải nói sao cho ra không”. Tôi bị sựng lại. Ngài cúp máy. Qua ngữ cảnh và ngữ điệu, tôi linh cảm là ngài đã không hài lòng về cách trả lời ấy. Thực ra tôi đâu có căn cơ hoặc bản sự gì để nghênh giải một tình huống vi ngôn như vậy. Nhưng dù sao tôi cũng đã được ấn khả một nghi tình chân lí bằng không(?). Sao lại bằng không? Chân lí ở đây hẳn là cái tuyệt đối tối thượng trong vũ trụ mà phật giáo gọi là Chân đế (khác với tục đế là chân lí tương đối). Trên logo của Hội Thông thiên học thế giới, người ta đặt vào đó một sologan là Không tôn giáo nào cao hơn chân lí! Cũng có nghĩa chân lí mới là mục đích còn tôn giáo chỉ là phương tiện. Điều này riêng có trong Phật giáo, chính Đức Phật tuyên, Pháp của Ngài chỉ là cái bè qua sông, là ngón tay chỉ trăng. Chân lí vì thế mà không thuộc phạm trù thước đo hoặc bàn cân hay một ý niệm khả danh nào cả. Cái gì tự đạt tới những “tiêu chí” như nó thì cái đó đã là chân lí rồi. Tôi mang niềm thức ngộ này mà mạo muội chân lí bằng không. Xã hội ngày nay đang ngả ngớn với đa nguyên tôn giáo. Tôn giáo nào cũng xác quyết một tín điều rằng chân lí vũ trụ chỉ có một mà cái một đó lại thuộc về mình, mình là chính giáo. Khi một tôn giáo tự coi mình là chính thì kẻ khác mình ắt hẳn là tà. Lịch sử nhân loại luôn minh chứng sự sai khác này bằng những trang xung đột đẫm máu. Riêng Phật giáo như tôi biết thì không. Ở đây chân lí cũng chừng như vô ngã. Cách nói khác thì chân lí cũng là một pháp mà thực tướng của các pháp là không - Bát Nhã Tâm Kinh nói vậy (“thị chư pháp không tướng”) nên chân lí cũng là không. Vậy thì chân lí đã thuộc về Phật giáo.
Cái nghi tình chân lí bằng không ngày ấy mãi đeo đẳng ám ảnh tôi cho đến hơn một năm sau mãn đời công chức trở về thân phận một lưu dân. Ra khỏi vòng “ô nhiễm” của thị phi danh lợi, tôi được sống tùy nghi tự tại theo ý mình bởi “quyền năng bảo chứng” của tấm lương hưu lập lòn bất biến. Buông dần những sở hữu, đoạn dần những quan hệ, tôi như đã tiệm cận vào thế giới ba không của Krishnamurti: không chủ đích, không suy niệm, không thời gian. Một cảnh giới tâm thức “rỗng” đã biến hiện trong tôi mỗi lúc ngồi thiền. Cái không được phóng chiếu vào trạng thái sống tương dung khả kham lòng trắc ẩn. Dù đây chỉ mới là cái không kiến chấp, cái không “đối trọng” với có, chưa phải là cái không bản thể, âu cũng đủ phủ dụ tôi “cư trần lạc đạo”. Nhưng rồi đùng một cái, đứa con trai bị vỡ nợ, bị thất tín, bị đe dọa. Thế quẫn cùng, tôi dằn lòng đem cái sổ lương hưu cầm cố mướn tiền giải cứu cho con. Và khi giữ được chữ tín thì nó lại chiếm chỗ cái không. Vậy là hết! Đến cái không muốn giữ được cũng khó, tôi lại phải tang bồng mang món nợ giang hồ vào chốn đa đoan. Hai lần đi làm thuê, hai lần “lợi bất cập hại”. Dính mắc vào tiền, ràng buộc vào việc, trùng trùng niệm khởi duyên sinh. Giữa ngổn ngang tơ vò nhện mắc, bất thần tôi gặp lại cái không. Thì ra nó chẳng mất đi đâu. Nó còn đó. Nó là hằng hữu. Hiềm một nỗi cái không luôn luôn bị cái có “tay ba” danh - lợi - tình lù lù che lấp. Người ta sống cũng vì ba thứ đó. Mấy ai buông được? Buông danh thì tiếc, buông lợi thì sầu, buông tình thì xót. Tuồng như tôi cũng đã có phần buông được danh lợi còn tình thì vẫn nhi nhiên, vẫn nằm trong quá trình tróc nã, quá trình thể nghiệm đớn đau. Hai thứ danh lợi đều là vật ngoài thân còn tình lại từ trong xương máu ứa ra. Nó là “thủ túc” của bản ngã. Nhưng đến khi cả tình cũng buông bỏ nốt thì bản ngã chắc trở nên cô độc và nó sẽ không còn “cộng sự” mà vùng vẫy tâm vương, không còn “quyền năng” mà hành sai tâm sở. Rồi bản ngã ấy sẽ được siêu thường hòa đồng vào đại ngã vô biên. Đại ngã vô biên cũng chính là thực tướng cái không của vũ trụ. Muốn tới được thực tướng cái không đó người ta phải bước qua cái không hiện tượng. (Cái không hiện tượng là cái không nhận thức được, trái với cái không bản thể). Bước qua cái không hiện tượng hay buông bỏ cái có giả danh chỉ khác nhau ở ngôn từ biểu đạt. Thực chất của chúng vẫn là “sắc bất dị không, không bất dị sắc”. Bước qua hay buông bỏ ở đây dường như tương ưng với pháp vô vi của Đạo Gia mà ai bén duyên ở đâu thì sẽ đắc ở đấy.
Tôi đang đứng bên này cái không hiện tượng thành khẩn vái chào cáo lỗi mọi cái có giả danh và xin thụ tội thất tín lạc loài ngõ hầu an trụ với niềm tin... mai sau dù có bao giờ...
N.K.T
(TCSH352&SDB29/06-2018)
JEAN-CLAUDE GUILLEBAUDLà một nhà báo - nhà văn Pháp thuộc “thế hệ Việt Nam”, thế hệ những người Pháp mà dấu ấn của cuộc chiến Đông Dương đã và sẽ in đậm trong suốt cuộc đời. Ông có mặt ở Việt Nam vào nhiều mốc lịch sử trước 1975, và từ đó ý định trở lại đất nước Việt Nam vẫn luôn thôi thúc ông. Cuốn “Cồn Tiên” được viết sau chuyến đi Việt Nam từ Nam chí Bắc của ông năm 1992. Bản Công-xéc-tô vĩnh biệt này, có thể nói, nó là nỗi ám ảnh của người pháp về Điện Biên Phủ ở Việt Nam. Hiện Guillebaud đang công tác tại Nhà Xuất bản Le Seuil (Paris).
PHẠM THỊ ANH NGA15-12-2002Hình như trong đám đông tôi vẫn luôn là một bóng mờ. Một bóng dáng nhạt mờ, lẩn trong vô vàn những bóng dáng nhạt mờ khác, mà giữa trăm nghìn người, ai cũng có thể “nhìn” mà không “thấy”, hoặc có vô tình “thấy” cũng chẳng bận lòng, chẳng lưu giữ chút ấn tượng sâu xa nào trong tâm trí.
PHẠM THỊ CÚC KýTôi sinh ra ở một làng quê, không những không nhỏ bé, hẻo lánh mà còn được nhiều người biết đến qua câu ca dao "Ai về cầu ngói Thanh Toàn/ Cho em về với một đoàn cho vui".
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNG Bút kýNhiều lần thức giấc trong mùi hương rạo rực của ban đêm, tôi chợt phát hiện ra rằng Huế là một thành phố được dành cho cỏ. Tôi không hề có ý xúc phạm, chỉ muốn lưu ý thêm về vai trò của cỏ trong quy hoạch đô thị. Thật vậy, không nơi nào trên thế giới mà những công trình kiến trúc của con người lại mọc lên giữa cỏ hoang như ở Huế. Đà Lạt cũng được xây dựng trên những ngọn đồi; nhưng ở đấy, hình tượng của cây anh đào và cây thông đã khiến người ta quên mất sự có mặt của cỏ dại.
THÁI VŨ Ghi chépNhững năm đầu kháng chiến chống Pháp, từ Quảng Nam- Đà Nẵng vào Bình Thuận lên Tây Nguyên được chia ra làm 3 Quân khu thuộc Uỷ ban Kháng chiến miền Nam Việt Nam, cụ Cố vấn Phạm Văn Đồng là đại diện của Trung ương Đảng và Chính phủ. Qua năm 1947, 3 Quân khu (QK 5, 6 và Tây Nguyên) hợp nhất thành Liên khu (LK) 5.
PHƯƠNG HÀ (truyện ký)Cho anh em trong phân đội trở về các vị trí giấu quân xong thì trời cũng vừa sáng. Đang giăng võng để ngủ lấy sức sau một đêm trinh sát, tôi chợt nhớ phải đến thăm Hoà vì Hoà sắp đến ngày sinh nở. Chúng tôi đang ở ngay làng của mình nhưng làng không còn nhà, dân bị giặc lùa đi hết, muốn tìm nhau thì phải tìm đến những căn hầm.
LÊ TRỌNG SÂMTrong cuộc đời của mỗi chúng ta, khi Bác Hồ còn sinh thời, được gặp Bác một lần đã quý. Trong cuộc sống của tôi, do có nhiều hoàn cảnh, nhiều duyên may lại được gặp Bác đến ba lần thì càng quý biết bao nhiêu. Tự đáy lòng, tôi thầm cảm ơn Đảng, cảm ơn Bác đã cho tôi ba lần vinh dự như vậy. Và những kỷ niệm đó vẫn còn tươi nguyên.
PHẠM THỊ CÚC Ký…Tôi chưa thấy ai hay ở xứ nào làm các tác phẩm mỹ thuật từ cây với dây... Nếu gọi là tranh thì là một loại tranh ngoài trời, lấy tạo hoá, thiên nhiên làm cốt, không giới hạn, dãi nắng, dầm mưa, đu đưa theo chiều gió, màu sắc cũng thay đổi từng giờ, từng phút, tuỳ theo ánh sáng mặt trời hay mặt trăng. Cho nên, tác phẩm rất linh động…
LÊ VĨNH THÁI Ghi chép Sau chặng đường dài gần 20 km vượt qua các con dốc cao ngoằn ngoèo, hiểm trở, tôi đã đến “hành lang” công trình hồ Tả Trạch, nằm giữa vùng rừng núi bạt ngàn thuộc xã Dương Hoà, huyện Hương Thuỷ. Công trình hồ Tả Trạch được khởi công xây dựng ngày 26/11/2005, là công trình trọng điểm của Thừa Thiên Huế và của cả nước, được Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn quản lý đầu tư từ nguồn vốn trái phiếu của Chính phủ, với tổng mức đầu tư khổng lồ 2659 tỷ đồng. Đây là một trong những công trình lớn của vùng Đông Nam Á.
TRƯƠNG ĐÌNH MINH Ký Đợt này trở lại Trường Sơn, tìm hiểu thêm các tấm bê tông xi măng vắt qua đỉnh Trường Sơn, lượn quanh các đèo U Bò, Cù Đăng, A Dớt - A Tép mưa mù phủ trắng... Có đỉnh như đỉnh Sa Mù cao trên 1400m mà đợt tháng 3/2003 vừa rồi chúng tôi đã có mặt. Song do mưa liên miên, xe vận chuyển vật liệu, vật tư đi lại co kéo quá nhiều, đường lầy lội. Các đơn vị thi công chưa hoàn thiện phần nền...
DƯƠNG PHƯỚC THU Bút kýNhiều năm rồi tôi vẫn nghe, đồng chí đồng đội, nhân dân Dương Hoà và những người từng ở hoặc đã qua lại nơi đây trước chiến tranh, khẳng định rằng: Sau khi hy sinh, thi hài liệt sĩ Ngô Hà được đơn vị tổ chức an táng tại sườn tây núi Kệ, nơi có khe suối Ngân Hàng chảy qua thuộc vùng chiến khu Dương Hoà. Trước ngày giải phóng miền Nam, mỗi lần ngang qua chỗ ông nằm mọi người lại tự ý đắp thêm một viên đá nhỏ, để cho ngôi mộ ấy sớm trở thành hòn núi như mới mọc lên từ đất, ghi dấu chỗ ông yên nghỉ ... Chờ ngày chiến thắng.
ĐỖ KIM CUÔNGNăm cuối cùng của bậc học phổ thông, tôi được học 2 tiết văn giới thiệu về "Dòng văn học lãng mạn Việt Nam 1930 - 1945". Cũng không có tác phẩm thơ hoặc văn xuôi được tuyển chọn để phân tích, bình giảng như bây giờ. Ngày ấy - những năm chống Mỹ cứu nước, thơ văn lãng mạn được xem là điều cấm kỵ.
TRƯỜNG ANChúng ta đang sống giữa những ngày rực lửa truyền thống hào hùng của Tháng Năm trong lịch sử cách mạng Việt và thế giới. Trước hết, hãy nhắc đến một sự kiện lớn của giai cấp công nhân quốc tế. Ngày 1.5.1886, do yêu cầu không được đáp ứng một cách đầy đủ, công nhân trên toàn nước Mỹ đã tham gia bãi công nhằm gây áp lực buộc giới chủ thực hiện yêu sách của mình. Đầu tiên là cuộc bãi công tại thành phố Chicago với biểu ngữ “Từ hôm nay không người thợ nào làm việc quá 8 giờ một ngày! Phải thực hiện 8 giờ làm việc, 8 giờ nghỉ ngơi, 8 giờ vui chơi!”.
PHẠM THỊ ANH NGA Gởi hương hồn bạn cũTôi qua đến Pháp ngày hôm trước thì hôm sau ba tôi mất. Cái tin khủng khiếp đó đối với tôi vẫn không đột ngột chút nào, bởi từ những ngày hè về thăm nhà, tôi đã biết trước ba tôi sẽ sớm ra đi.
TÔ VĨNH HÀEm hẹn gặp tôi ở quán cà phê Trung Nguyên. Đó là địa điểm em tự chọn. Cái tên ấy cho tôi biết rõ là giữa hai chúng tôi không có gì nhiều hơn một cuộc trao đổi bình thường. Tuy nhiên, sự mách bảo từ nơi nào đó của linh cảm và cả ước muốn, cứ làm cho tôi tin rằng đó là điểm khởi đầu. Đêm cuối xuân, Huế gần như ít buồn hơn bởi cái se lạnh của đất trời. Huế bao giờ cũng giống như một cô gái đang yêu, đẹp đến bồn chồn. Nếu được phép có một lời khuyên thì chắc hẳn tôi đã nói với tất cả những người sẽ được gần nhau rằng, họ hãy cố chờ đến một đêm như thế này để đến bên nhau. Bầu trời mà Thượng đế đã tạo ra sẽ cho mỗi con người biết cách đến gần hơn với những lứa đôi.
CAO SƠNChuyện xưa: Vua Hùng kén tìm phò mã cho công chúa Ngọc Hoa, đồ lễ vật phải có gà chín cựa ngựa chín hồng mao? Thôi thúc Lạc dân xưa kia, đánh thức tiềm năng người dân phải tìm hiểu, lặn lội từ đời này sang đời kia chưa thấy. May sao với thú đi để biết, anh Trần Đăng Lâu, cựu chiến binh, hiện Giám đốc vườn quốc gia Xuân Sơn tỉnh Phú Thọ cho hay: Vườn quốc gia nguyên sinh anh Lâu đang quản lý, mới phát hiện giống gà lạ ấy. Con vật đặc biệt chưa có ai biết tới, chưa được phổ biến rộng rãi, thương trường chưa có cuộc trao bán...
NGUYỄN HỮU THÔNG Bút ký"Buổi mai ăn một bụng cơm cho noChạy ra bến đòMua chín cái tráchBắc quách lên lò
TRẦN NGUYỄN KHÁNH PHONG Bút kýTrong hồi ức của một số cán bộ lão thành cách mạng ở A Lưới kể lại rằng: “Hồi đó có một số người ở đồng bằng tản cư lên sống cùng đồng bào; qua họ, đồng bào nghe đến tên Cụ Hồ, nhưng đồng bào chỉ biết đầy đủ về Bác cũng như thấu hiểu được những điều Bác dạy qua các cán bộ người Kinh lên hoạt động ở đây vào khoảng những năm 1945-1946. Cán bộ bảo: Cụ Hồ muốn nhân dân mình học lấy cái chữ để biết bình đẳng. Muốn bình đẳng còn phải đánh Pháp. Nếu đoàn kết đánh Pháp thì ai ai cũng đánh Pháp và khi đó đồng bào ta nhất định thắng lợi” (1)
PHAN TÂM (Kỷ niệm 240 năm sinh thi hào Nguyễn Du 1765-2005)Tháng Hai 1994:Từ Vinh qua cầu Bến Thủy, rẽ trái độ mười cây nữa, đến xã Xuân Tiên (Tiên Điền), huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh.Khu đất cao ráo ở ngay đầu xã, bên bờ sông Lam, cạnh bến Giang Đình, là khu nhà cũ, khu lưu niệm Nguyễn Du.
LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách