TRẦN THÚC HÀ
Đoàn Mã Kỳ đã tìm thấy vùng núi thiêng. Đến được đấy còn phải đi một quãng xa. Mã Kỳ chọn đám đất trống, tầm nhìn quang, buông tay nải, tựa lưng vào gốc cây lớn, cởi dép cỏ, duỗi đôi chân sần sùi vết xước còn tươm máu nghỉ sức.
Minh họa: Nhím
Mã Kỳ tu một hơi rượu đựng trong chiếc bầu khô. Có chút men nồng làm cho khuôn mặt to bè, cằm bạnh, hốc hác, đôi má lõm sâu, lưỡng quyền nhô ra cùng với màu da xám chì của kẻ trải qua bao gian nan nhọc nhằn tươi tỉnh lên đôi chút. Mã Kỳ đưa tay áo nâu sẫm chùi mấy giọt rượu dính trên đôi môi mỏng. Hai con mắt to dưới cặp lông mày rậm xếch ngược chợt sáng lên khi thấy trong nắng chiều một đám mây trắng dấp dáng hình rồng vờn trên đỉnh núi! Dưới bóng mây ấy là chín ngọn núi liền mạch trải dài trên chục dặm từ thấp đến cao theo thế rồng vươn lên, được bao bọc trong trăm ngọn núi trùng điệp, thâm u. Mã Kỳ sung sướng thốt lên: Núi thiêng! Đại Long Sơn đây rồi! Nơi mà trước khi bị giết cha của Mã Kỳ dặn Mã Kỳ phải đi tìm cho được hàm rồng trên Đại Long Sơn.
Tàn chiều. Mặt trời lặn về phía núi. Trên dãy núi thiêng bùng lên vầng hoa lửa.
Đêm xuống. Để tránh thú dữ, Mã Kỳ tìm chạc ba một ngọn cây cao, buộc chéo tấm vải qua người nghỉ đêm. Mã Kỳ không ngủ. Về khuya sương lạnh buông xuống, Mã Kỳ lấy trong tay nải thanh quế nhỏ đưa vào mồm ngậm cho ấm người, kéo hai múi vải thừa quấn qua người, ngồi bó gối mặc tiếng xao xạc của thú rừng đi ăn đêm, tiếng hổ gầm đâu đó vang vọng, Mã Kỳ chăm chú nhìn đỉnh núi cao nhất, có hình dáng rồng bởi về đêm khí thiêng có thể xuất hiện khoảnh khắc nào đó mà xác định hàm rồng! Sang canh ba, Mã Kỳ nghe như có tiếng sấm vọng. Mưa chăng? Ngước nhìn sao vẫn lung linh. Chợt ở hướng núi cao xuất hiện một luồng mây vàng từ đỉnh núi tỏa ra bốn phương. Mây vàng nhạt dần trên bầu trời khi nắng lên. Không thể khác! Nơi ấy là rồng phục, là khí thiêng của Đại Long Sơn.
Ngày đến. Lượng sức mình khó vượt qua suối lớn núi sâu Mã Kỳ tìm đến một ngôi làng nhỏ lẫn khuất bên rừng cây, nhờ một thổ dân khỏe mạnh đưa đường, mang theo lương ăn. Phải mất mấy ngày Mã Kỳ mới leo hết chín ngọn núi, lên đỉnh ngọn núi cao nơi mà ban đêm Mã Kỳ thấy mây vàng xuất hiện. Mã Kỳ nhận ra trên đỉnh núi cao ấy hình dáng rồng. Tuy đã nhận ra hình thế như vậy, nhưng kiến thức về long mạch của mình không được bao nhiêu nên Mã Kỳ chưa tìm được hàm rồng nằm ở đâu đó. Mã Kỳ ghi chép lại những gì đã trông thấy rồi quyết định trở về sẽ nhờ những vị uyên thâm địa lý xác định. Mã Kỳ xuống núi.
Đoàn Mã Kỳ con Đoàn Thượng. Thời Lý suy tàn, Đoàn Thượng cát cứ phương đông vùng Hải Dương. Nguyễn Nộn ở phương bắc. Nộn thôn tính đất của Thượng, vây hãm mấy năm trời rồi làm cỏ gia quyến Thượng, xưng Đại Thắng Vương. Nộn hàng phục Trần Thủ Độ, được nhà Trần gả công chúa Ngoạn Thiềm, phong Hoài Đạo Hiếu Vũ Vương. Đoàn Mã Kỳ mới mười lăm tuổi, lúc hỗn quan hỗn quân trốn thoát được trong cuộc tắm máu của Nguyễn Nộn.
Cảng Vân Đồn ở ngoại vi Thăng Long có Thương điếm của người khách phương Bắc. Người khách tuy là một thương gia, nhưng y thạo thiên văn địa lý, giỏi mưu mô, có tài đánh vào lòng người mà làm tan rã nhân tâm. Đến Đại Việt chuyện buôn bán là cái che lấp ở bên ngoài. Trước khi vào Đại Việt, y đã đọc được bản tấu trình để lại cách đây gần năm trăm năm về trước của Cao Biền Thái thú Đô hộ sứ cai trị nước Nam với vua Đường: Xứ ấy thường có sao sáng xuất hiện, long mạch trải dài trên toàn cõi An Nam nên thời nào cũng xuất hiện quân vương, hào kiệt mà phương Bắc không có cách gì trừ diệt, khuất phục được. Thượng sách là phải yểm phá hết long mạch nơi cội nguồn hun đúc anh tài xuất hiện. Song hành cùng kế ấy, khơi dậy lòng tham lam quyền lực, dùng vàng bạc lung lay người bản địa, cho cát cứ đối lập làm phân rã cường sinh ắt sẽ dễ bề sai khiến. Bản tấu của Cao Biền giờ là trọng trách của y. Vào Đại Việt bảy năm làm thương nhân, y đã bỏ ra nhiều vàng bạc vậy mà chưa lôi kéo được một triều thần nào hướng về Trung Nguyên, bởi xã tắc sơn hà thời hào khí Đông A vững như bàn thạch. Nhưng y đã đi đây đi đó, nhìn trời mây, hình sông thế núi, dò la trong dân gian, y biết được cách Thăng Long chừng bốn trăm dặm có Đại Long Sơn. Trên Đại Long Sơn có rồng phủ phục, Linh huyệt ở mắt rồng. Linh huyệt ấy là nơi tỏa ra Nguyên khí cho toàn cõi Đại Việt để có sức mạnh bất diệt. Yểm phá được Linh huyệt ấy là triệt tiêu chí khí của Đại Việt. Nhờ phát hiện đó mà y nhận ra rằng cả ngàn năm nay triều đại Trung Hoa nào cũng không khuất phục được Đại Việt dù đã đem binh hùng tướng mạnh cùng hàng trăm nhà thiên văn địa lý, pháp sư yêu thuật yểm trừ các long mạch. Theo y, họ không tìm ra được Linh huyệt này. Họ càng không biết Linh huyệt này sẽ tỏa ra nguồn sinh khí mà hồi sinh các long mạch đã bị yểm trừ. Y cảm thấy vui sướng là người xuất chúng trong hàng ngũ những nhà thiên văn địa lý của nước Trung Hoa từ trước tới nay. Nhưng muốn đến được nơi ấy chuyện không phải dễ. Y nhận ra, y không dám vào chốn thiêng liêng bản xứ: Đại Long Sơn nằm sâu giữa trùng điệp núi rừng. Và dù có đến được thì điều cốt yếu là y không đủ bản lĩnh uyên thâm để phát hiện ra Linh huyệt. Y biết ở Thăng Long có một người làm được việc đó. Tuy thế, việc đào núi và lấp biển còn dễ hơn là mua chuộc người ấy.
Dịp may có một không hai đã đến với y. Chiêu Vương Quốc Trần Ích Tắc em ruột vua Trần Nhân Tông, con thứ Thượng Hoàng Thái Tông. Thuở lên mười đã tỏ ra thông minh xuất chúng, kinh sách đưa mắt nhoáng qua nhẩm lại không thiếu một chữ. Mười sáu tuổi thì Ích Tắc coi vương tôn hoàng tử trong nội không ai bằng mình. Năm hai mươi tuổi Ích Tắc ngửa mặt lên trời: Đã sinh ra Ích Tắc sao lại làm con thứ? Ích Tắc hận mình không được làm vua, bất mãn trong lòng. Lại có bọn Lê Diễn, Phạm Cự Địa, Trịnh Long được Trần Nhân Tông cân nhắc thăng chức nhưng Thượng Hoàng Thái Tông không chấp nhận. Bọn họ hậm hực, cấu kết làm tay chân cho Trần Ích Tắc. Ích Tặc lập bè cánh trong bóng tối. Bọn Diễn, Địa móc nối được với người khách buôn ở Vân Đồn. Người khách đã đem nhiều vàng bạc cho bọn Ích Tắc, luôn bày mưu cho Ích Tắc làm những việc mờ ám. Một hôm, Ích Tắc lén lút đưa người khách vào tư dinh của mình. Ích Tắc hỏi:
- Ngươi có kế gì đưa ta lên làm vua?
Đây là cơ hội hiếm có của người khách để triệt tiêu Linh huyệt nơi khởi nguồn Nguyên khí của quốc gia Đại Việt, người khách đáp:
- Có nhiều. Tuyệt chiêu hơn hết là yểm trừ Linh huyệt nơi hộ mệnh cho đế vương hiện tại. Linh huyệt chết thì đế vương băng hà, Chiêu Vương Quốc sẽ lên kế vị.
Ích Tắc hỏi:
- Linh huyệt ở đâu?
- Không nói ra tường tận được. Kẻ tôi tớ này đã nhiều lần cho người lên núi nơi có Linh huyệt, có đi mà không có về.
- Vậy ai làm được điều đó?
- Trình Chiêu Vương Quốc, kinh thành Thăng Long này duy nhất chỉ có một người, nhưng khó mua chuộc. Người ấy là Đặng Tiên sinh. Tiên sinh uyên bác sách sử cổ kim, thông tỏ thiên văn, thấu suốt địa lý là hiền nhân ẩn dật miền ngược, mấy năm nay cùng cha già hạ sơn làm điều thiện.
Ích Tắc nói:
- Ta cũng nghe nói đến người này. Ta sẽ nghĩ cách sai khiến người này. Rồi người đó làm gì?
Người khách đáp:
- Người đó sẽ tìm ra Linh huyệt. Chiêu Quốc Công bí mật sai người đào một cái hào chém đôi linh huyệt.
- Được! Được. Ta sẽ cho khởi sự. Người sẽ giúp ta một tay.
Người khách hả hê vì bẫy được Ích Tắc vào kế hiểm. Người khách quỳ gối nói khẽ vừa đủ Ích Tắc nghe: “Không thành, hãy tựa lưng phương Bắc!”
Theo chỉ dẫn của người khách bọn Diễn, Địa, Long đã mời Đặng tiên sinh vào phủ Chiêu Quốc Vương.
Đặng Tiên sinh sống ngoại đô. Tiên sinh trước họ Lý, dòng dõi vua chúa. Lý tàn. Tránh sự truy diệt của Trần Thủ Độ, cha con Tiên sinh trốn lên mạn ngược, đổi họ. Nhớ cố hương quay về Thăng Long. Hận cũ chưa phai. Ngày ngày lại thấy họ Trần chễm chệ trên ngai vàng lòng thêm u uất. Nhưng không vì thế để cuộc sống mòn mỏi với buồn nản. Cha con Tiên sinh đêm đêm thao thức với chữ Tri, động đến chữ Tâm, khơi dòng chữ Dụng nên cha con Đặng tiên sinh làm thuốc cứu bệnh. Tiên sinh lại khăn gói rày đây mai đó từ núi sâu rừng thẳm đến những đồng hoang bãi vắng tìm đất lành khí vượng, tìm thuốc quý chữa bệnh ghi thành sách cho đời. Kẻ sĩ đế đô nghe tiếng người hiền thường đến uống rượu đàm đạo cùng cha con Tiên sinh.
Trần Ích Tắc tỏ ra trọng vọng nâng chén ngọc mời Tiên sinh rượu quý:
- Ta nghe nói phương Nam có Đại Long Sơn xin Tiên sinh lí giải cội nguồn, vị thế cho ta tường tận.
Cứ nghĩ Ích Tắc muốn hiểu biết của mình thêm phong phú, cũng như bao buổi trò chuyện cùng bạn bè khi tiên sinh phát hiện ra một điều mới lạ, Đặng Tiên sinh thưa:
- Phương ấy, chín ngọn núi vươn lên từ một giải đất bằng, được bao bọc bởi hàng trăm ngọn núi khác. Tên chữ tổ tiên gọi Đại Long Sơn. Chúng dân quen gọi Núi Thiêng. Bởi những đêm giông bão trên núi ấy vẫn trời quang, rực sáng; lại có nhiều cây thuốc quý cùng muông thú đầy đàn. Núi theo thế Long, đuôi chạm suối lớn, mình uốn khúc, đầu ngẩng cao về phương Đông. Hình vun đắp vạn thuở. Khí thiêng triệu năm trong trời đất hòa nhập vào mà tạo nên Đại Long sơn. Trên Đại Long Sơn có Linh huyệt.
- Tiên sinh đã lên đến đó?
- Dạ chưa! Chỉ dạo quanh chân núi.
- Sao ngươi biết được?
- Nhìn thấy thế núi trong toàn cõi biết đấy là Đại Long Sơn; lại thấy những ngôi sao lớn khi ngang qua núi đều mờ nhạt đi mà biết ở đấy có hào quang của mắt rồng sáng tỏa. Linh huyệt ở nơi mắt rồng.
- Ngươi đúng là một nhà thông thái. Nay người đi tìm Linh huyệt cho ta! Ta cần chiếm lấy Linh huyệt. Ích Tắc nói giọng cứng như đá.
Khuôn mặt Đặng Tiên sinh vuông, vừng trán rộng đôi mày thanh tú, mắt sáng, ở tuổi tri thiên mệnh bỗng tái xám như có con thú dữ đi tới. Cứ ngỡ Ích Tắc tỏ tường hồn thiêng mạch nguồn non sông, hiểu thấu cơ trời mà bồi bổ tri thức tìm điều hay phụ tá cho hào khí Đông A ngày thêm thịnh trị. Nào hay, Ích Tắc lục vấn với ý tà tâm, thâu tóm. Họa đã khơi mầm. Phải đối mặt với điềm dữ Đặng Tiên sinh ngẩng cao đầu thưa:
- Trình Chiêu Quốc Vương. Xưa nay đấy là chốn thiêng liêng chỉ trừ những hiền nhân đi kiếm thuốc cứu bệnh, không ai được bước chân đến Đại Long Sơn, lại càng không dám quấy động đến mắt rồng, bởi đó là Linh huyệt khởi sinh Nguyên khí, Nguyên khí tỏa ra Vượng khí trong toàn cõi cho dân an quốc thịnh đời đời. Nay Chiêu Quốc Vương tính chuyện động đến là trái với đạo trời, gây đại họa, người đứng đầu trăm họ sẽ bị trừng phạt là vua đoản mệnh.
Ích Tắc mặt mày hớn hở, cười lớn:
- Người quá lo xa. Không có ông vua này thì có ông vua khác. Không có chuyện gì mà ta kiêng nể, không dám làm. Bây giờ ta cần người lên Đại Long Sơn tìm mắt rồng - Linh huyệt cho ta. Ta sẽ ban thưởng cho ngươi.
Đặng Tiên sinh kinh hãi, cúi đầu. Lặng im một lúc, Đặng Tiên sinh thoáng nghĩ phải chăng đây là cơ may để ta mượn tay Ích Tắc khơi mầm họ Trần nồi da xáo thịt cho ta thỏa lòng oán hận, cho dòng họ ta dưới đất đen nguôi ngoai tủi hờn dưới bàn tay hủy diệt của Trần Thủ Độ. Nhưng rồi kẻ sĩ trong ông lên tiếng: Không vì sự hèn hạ ích kỷ ấy mà ta thực hiện mưu đồ của hắn làm cho trăm họ khốn đốn, máu lại chảy khi giặc ngoại xâm đang lăm le thôn tính nước ta. Không thể! Cha con ta chọn bốc thuốc chữa bệnh, cứu một vài người giờ chỉ lối cho kẻ gây họa muôn dân? Phước mới như ngọn cỏ, mà ác ta khơi ra sẽ như đỉnh núi. Đó không phải xử sự của kẻ đọc sách thánh hiền. Đừng vì hận riêng mà lương tâm không lên tiếng:
- Cớ sao Chiêu Quốc Vương lại dám gây họa?
Ích Tắc cười:
- Có họa mới làm nên việc lớn. Ta đâu chỉ trị vì đất Đại Việt!
- Xin Chiêu Quốc Vương kiềm chế. Họa đến, liệu trăm họ còn đủ sức đề phòng giặc Nguyên Mông?
- Ngươi nhầm! Ta không gọi Nguyên Mông là giặc. Ngươi chớ hỏi ta nhiều. Ta cần người đến Đại Long Sơn cố mà tìm thấy Linh huyệt để khỏi bước xuống huyệt mộ ta đào cho cha con ngươi. Bây giờ người được phép đến thăm thân phụ người đang ở trong phủ của ta.
Đặng Tiên sinh cố trấn tĩnh. Thì ra cha ta đã bị Ích Tắc khống chế.
Nhìn thấy cha già đã ngoài bảy mươi tuổi ngồi bên song cửa mắt đăm đăm nghĩ ngợi, Tiên sinh quỳ sụp, nước mắt đầm đìa:
- Cha! Vì con mà cha lao lý! Cha ơi…
Phụ thân Tiên sinh mình gầy, râu tóc bạc trắng, mắt sáng nâng con dậy:
- Đâu phải thế! Lúc này con không được yếu mềm. Cha con ta không thoát khỏi cái chết bởi kẻ tà tâm. Không đi không được. Con cứ đi đi. Những tháng ngày ở chốn rừng xanh núi thẳm con sẽ nghĩ ra một điều gì đó có ích cho đời. Ta chỉ dặn con: Hạ một chữ có thể yên dân, có thể loạn nước!
Toán người danh nghĩa đi tìm cây thuốc quý với vài mươi người lính lực lưỡng nhưng ăn vận theo lối phu khiêng vác, hầu hạ do Lê Diễn cầm đầu. Người khách Vân Đồn, Đặng Tiên sinh đóng vai thầy thuốc, mặc áo xám rộng ống, tóc búi củ tó, tay cầm quạt, nằm võng, có vải che nắng. Trên đường đi mấy trăm dặm Diễn không bao giờ dừng chân ở trạm. Người khách Vân Đồn không cho Diễn giao dịch với bọn tổng lý, sợ lộ cơ mưu.
Trước khi đặt chân lên Đại Long Sơn, Tiên sinh cho đốt trầm hương để mọi người tẩy uế bụi trần, vái lạy núi thiêng. Người khách không chịu vái, nói đất Thiên tử không vái lạy chư hầu. Đặng Tiên sinh ngửa mặt lên trời mà than: “Quân ngạo mạn!”
Tiên sinh mở túi da, đặt la bàn định hướng.
Vượt qua con suối rộng bằng chiếc bè nứa. Phía trên bến vượt là dòng thác lớn từ núi xa đổ về. Nước như mây trời bay xuống rồi từ từ trôi xuôi trước chân núi Đại Long Sơn. Nước suối trong trông rõ mặt người. Những đàn cá lưng xanh, bụng trắng chao nghiêng sánh cùng những hòn đá cuội lấp lóa ánh mặt trời. Đôi bên bờ suối từng đàn bướm khoe màu sắc. Chiếc bè cập trên một bãi cát mịn, vàng tươi. Tiên sinh đặt chân lên sườn núi trải dài của ngọn núi thấp trong dãy Đại Long Sơn. Nơi đây nhiều thảm cỏ mượt mà như tấm nhung xanh. Bóng dáng con người làm cho đàn hươu ngơ ngác nhìn, đàn voi thản nhiên đi qua, mấy con hổ vằn nằm ghếch đầu lên tảng đá phơi nắng sớm. Ngọn núi thứ ba, thứ tư có những hàng cây cả ngàn năm tuổi, gốc lớn, rễ bành ra vồng lên bốn phía cao quá đầu người, cành xòe tán cho lũ chim trú ngụ ríu rít. Đỉnh núi cao nhất cũng là đỉnh núi cuối cùng, rừng thưa hơn, nhiều tảng đá lô nhô xen trên những bãi đất bằng nhỏ. Mùi hương của hoa của cây cỏ phản phất dìu dịu với không khí trong lành ngỡ như trong một vườn hoa lớn.
Tiên sinh bảo với bọn Diễn dựng cho mình một chiếc lều riêng để được tĩnh tâm và đêm đêm chiêm nghiệm trời đất mà dò tìm Linh Huyệt. Toán quân lính đi theo có một người lính đứng tuổi không nói một lời, luôn nhìn Tiên sinh với một ánh mắt như một chấm hỏi, thấu hiểu. Tiên sinh nhận ra người này có chí khí, miễn cưỡng mà đi theo hầu, lại có biết dăm ba chữ, Tiên sinh cho ở gần, đưa thức ăn nước uống, mài mực giúp Tiên sinh.
Người khách Vân Đồn và Lê Diễn thì khác. Họ chăm chú trên mọi nẻo đường, từng con sông thế núi. Họ thường nói chuyện kín với nhau. Đôi khi người khách cật vấn Đặng Tiên sinh mạch núi này từ đâu đến, con suối kia đổ về xứ nào? Y luôn lén lút chú ý quan sát gương mặt của Tiên sinh mỗi khi Tiên sinh dừng bước nhìn núi non trời mây và ghi chép. Người khách đắc ý, thầm nghĩ y đã đạt được tuyệt mưu! Y đã dụ được Ích Tắc. Không chóng thì chầy huynh đệ vương tôn họ Trần nghi kỵ mà sát hại nhau. Lớn hơn thế, y đã lên được Đại Long Sơn. Dù không chém đứt được linh huyệt thì y đã thủ sẵn trong hành trang một túi da dê đựng máu chó đen để ném xuống linh huyệt, theo phép yêu thuật mà y tin rằng sẽ trừ khử mãi mãi nơi phát sinh ra những anh tài hào kiệt của xứ An Nam.
Gần tháng trời, Tiên sinh chu du khắp năm ngọn núi. Tuy là thời gian ngắn ngủi, nhưng đây là dịp may trời cho. Với Tiên sinh bị đẩy vào thế thúc bách, sinh mạng tính từng ngày, những gì, bao nhiêu năm lặn lội đặt chân trên những miền đất nước chưa kịp hoàn chỉnh đây là cơ hội cho Tiên sinh. Những trang viết vội, Tiên sinh nói với người lính giúp mài mực mà Tiên sinh đã cảm hóa được: “Ta không thể giữ được. Người giữ lấy. Nó có ích đấy”. Khi đã hoàn tất những ghi chép các địa danh cùng những cây thuốc quý trước đây đã tìm được, Tiên sinh thanh thản, lòng không vướng bụi trần bước ra khỏi lều, ngước nhìn đỉnh cao chót vót núi thiêng thành kính tạ ơn trời đất. Bất chợt, Tiên sinh ngỡ ngàng nhìn thấy cận kề đỉnh núi trên một đám cỏ non biếc như tơ có một luồng khí mỏng lấp lánh năm sắc bay lên. Tiên sinh chăm chú nhìn. Tiên sinh phóng tầm mắt xa hơn của thế núi. Tiên sinh biểu lộ một niềm vui khí thiêng sông núi đã cho Tiên sinh nhìn thấy Linh huyệt - mắt Rồng! Tiên sinh định đặt bút chấm điểm Linh Huyệt - mắt rồng trên tấm họa đồ. Nhưng không rõ từ đâu một con chim có màu sắc vành xanh óng ánh rơi trước mắt Tiên sinh giẫy giụa, hấp hối. Tiên sinh giật mình, điềm xấu và làm cho Tiên sinh nhận ra mình đang làm gì, cho ai. Sự sống và cái chết của cha con Tiên sinh chỉ một dấu chấm này thôi! Lời nói của người cha tóc bạc phơ vừa nghiêm nghị trầm tĩnh, vừa tha thiết vang lên trong tâm trí ông như lời trăn trối: Hạ một chữ… Tiên sinh choáng váng! Ôi! Ta không thể vì cha con ta để cho kẻ tà tâm động đến Linh huyệt, làm tiêu tan mạch tồn vong của đất nước. Bằng một thái độ kiên quyết, Tiên sinh gập tấm họa đồ, xếp quản bút cho vào tay áo.
Biết trở về là nhận cái chết. Nhưng Tiên sinh không nỡ nhìn đám lính kia họ chẳng vì ai mà ngày đêm khó nhọc, gầy ốm nơi rừng sâu núi thẳm, chiều chiều buồn bã nghe con chim gọi bạn về tổ mà ngóng vọng quê nhà, Tiên sinh báo cho họ xuống núi. Người khách có đôi lông mày rậm với cặp mắt một mí nhíu trên khuôn mặt hùm hụp đầy quái dị, hách dịch:
- Chưa tìm thấy Linh huyệt sao lại dám hạ sơn?
Tiên sinh đáp:
- Kẻ tối tăm này hữu hạn. Tìm nữa cũng vô ích!
- Người đã tự đưa mạng sống của mình đến chặng cuối.
- Số phận cưỡng sao nổi!
Người khách nghĩ Tiên sinh còn hữu dụng, hắn dịu giọng, mưu đồ khác:
- Còn đấy! Trở về tay không ta chết mà người cũng chết, hãy theo ta qua bên kia Chăm pa.
- Chẳng ích gì. Kiếp người thêm tủi nhục!
- Nhưng ít ra cũng thoát được cái chết nhãn tiền!
- Tạ ơn. Người Đại Việt không ai muốn để hài cốt mình nơi đất khách, hồn bơ vơ!
Tiên sinh thả bộ nơi núi non, khí trời, cây cỏ cây cùng đất giao thoa không chút bụi trần mặc cho người khách mặt bự bự bầm như máu đang đứng như trời trồng.
Đoàn Mã Kỳ kín đáo theo sát Tiên sinh suốt cả cuộc hành trình. Biết được Tiên sinh sắp hạ sơn, Mã Kỳ chép miệng: Con người bậc nhất về âm dương trạch ấy hẳn đã điểm được hàm rồng (Mã Kỳ chỉ biết chừng ấy, không như người khách Vân Đồn đi tìm mắt rồng - Linh huyệt)! Đại long mạch sẽ trùm lên thiên hạ. Xương cốt của cha ta sẽ nằm trong hàm rồng mà thăng vượng truyền sức mạnh cho ta tung hoành khởi sự phục thù, cướp lại những gì đã mất. Cha ơi! Thời cơ sắp đến. Mã Kỳ nhớ lại ngày ấy trong cuộc giành giật thiên hạ, thâu tóm quyền uy cha ta đã thất thế. Biết mình khốn nguy, không thoát được cha ta đã kịp dặn ta phải khổ luyện đèn sách, cung kiếm tinh thông, rồi đi tìm cho được huyệt rồng ngự đâu đó trên những đỉnh núi phương Nam mà táng hài cốt người vào đấy rồi mới vung gươm khởi đại sự. Ngoài ba mươi tuổi, Mã Kỳ đã đủ sức, múa gươm suốt ngày không mệt, khăn gói lặn lội nắng mưa đi tìm long mạch mà bắt gặp Đại Long Sơn. Khi từ núi thiêng trở về, đang đi tìm các vị uyên thâm địa lý để tường tỏ thêm thì có kẻ mách bảo cho Mã Kỳ biết Đặng Tiên sinh lên núi tìm rồng cho Trần Ích Tắc. Mã Kỳ giấu mặt, lần theo Tiên sinh từng bước. Khi đoán chắc Tiên sinh đã tìm được rồng, Mã Kỳ bất ngờ xuất hiện:
- Xin Tiên sinh phiền lòng theo tiểu nhân băng qua núi bên kia!
Đang lưu luyến với đất trời nơi núi thiêng trước khi xuống núi, chợt Tiên sinh giật mình! Trước mắt Tiên sinh là một kẻ tráng niên lạ, y phục một người phu nhưng trong toán quân không có khuôn mặt này. Linh tính báo gặp họa! Tiên sinh trầm giọng, điềm tĩnh:
- Ngươi là ai? Để làm gì?
- Đến nơi hẵng hay. Xin Tiên sinh cứ gọi người hầu chuyện với Tiên sinh là tiểu nhân.
- Không xưng tên, không rõ gốc gác với sự hiện hữu không thuận theo lẽ thường tình ta chỉ gọi ngươi là kẻ ám nhân!
- Tùy Tiên sinh. Xin Tiên sinh cất bước. Tiên sinh cũng biết rằng chỉ chốc lát nữa thôi bọn Lê Diễn sẽ đi tìm Tiên sinh.
Gặp kẻ cường tráng, dữ tướng, mày xếch, mặt lớn lại lâm vào một tình thế không thể khác Tiên sinh đành theo ám nhân. Tiên sinh vừa đi vừa tự hỏi con người kia là ai, từ đâu đến, mưu mô gì đây? Hành vi ám muội là kẻ sát nhân Tiên sinh rùng mình: Sao số phận ta gặp lắm tai ương vậy?
Khi đến một hẻm núi hẻo lánh Mã Kỳ nói:
- Gia quyến tiểu nhân bị giết, thây phơi đầu bãi cho quạ rỉa xác, đã hai mươi năm khổ luyện, tìm đến Đại Long Sơn gởi nắm xương cốt cha vào long mạch mong khí thiêng vượng phát, đủ sức bình sinh giành lại vị thế cũ. Thiên kiến hạn hẹp chút nữa nhầm lẫn. Không còn cách nào khác đành thất lễ với Tiên sinh, mong Tiên sinh chỉ huyệt hàm rồng. Công thành, vàng bạc không tiếc.
Tiên sinh điềm nhiên đáp:
- Ám nhân xem thường ta quá! Ta cũng chẳng hữu ích gì. Vả chăng người đời không nên gây sự.
- Tiên sinh trong ấm ngoài êm, chén rượu vầng trăng, chu du sơn thủy thấu sao hết hờn căm của kẻ cha ông bị sát hại, đêm đêm nghe xương cốt dưới ba tấc đất gào lên bi thiết?
- Đã thế ta chẳng giấu gì ám nhân, cả Hoàng tộc vương triều ta sụp đổ. Vua bác ta phát cuồng, gửi thân cửa Phật vẫn bị bức tử. Vọng tộc ta còn sót lại tụ tập đốt nén hương khóc than những người đã chết. Độc kế của Trần Thủ Độ được bày, chôn vùi họ dưới hầm sâu. Thù oán ngất trời. Nhưng đấy là mệnh đã hết. Sách trời sòng phẳng, tính sổ. Họ trả nợ cho những oan hồn mà kiếp trước dòng họ ta đã gây nên. Nhân - Quả. Luân - Hồi. Kiếp người là vậy! Sao không tu nhân hôm nay cho đời sau phúc ấm? Gây họa, tích ác làm gì? Phải chăng tài trí như người quốc gia đang cần há không giúp rập?
- Vậy dám hỏi ai cung cúc cúi đầu điểm huyệt rồng cho kẻ nuôi rắn trong cung, ngầm thọc dao sau gáy để ngự trên quyền lực chót vót?!
- Tấm họa đồ ám nhân đã tước của ta, nhiều ngọn núi trên họa đồ không có thật, không ai đọc được. Vậy là ta không có gì để nói nữa.
Tiếng nói từ tốn mạch lạc nhưng sắc như dao, nặng như chì, tuyệt đường của Tiên sinh làm cho Mã Kỳ tức giận xé nát tấm họa đồ, gầm lên: Đồ vô dụng! Y rút dao đâm chết Tiên sinh rồi tẩu thoát.
Bấy giờ, Lê Điền sục tìm giết Mã Kỳ. Trần Ích Tắc giam đói thân phụ Đặng Tiên sinh đến chết. Cơ mưu không thành Trần Ích Tắc, Lê Điền, Trịnh Long, Phạm Cự Địa chạy lên phương Bắc nấp bóng quân Nguyên Mông. Xấu hổ, đắc tội trước hào khí Đông A, Ích Tắc treo cổ chết, thây vùi đất Bắc. Bọn tay chân cắp nón lê chân kiếm cơm xứ lạ. Người khách Vân Đồn ở trong trướng của Toa Đô. Y dẫn quân Toa Đô từ Chăm pa tiến đánh Châu Hoan, Châu Ái. Người khách bị quân Đại Việt chém chết trên lưng ngựa cùng với chủ tướng Toa Đô và mười vạn quân Nguyên vùi thây ở Tây Kết, bên lưng y còn túi da dê đựng máu chó đen mà y chưa tìm được mắt rồng để yểm Linh huyệt trời Nam.
T.T.H
(SH314/04-15)
PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.
NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H
TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…
NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.
THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…
NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.
XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.
PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...
PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.
QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.
XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.
TRẦN THỊ TRƯỜNGNgày trăng tròn lẻ. Tháng Trung Thu năm Đại Bảo thứ 3.Người hai lưỡi bảo là ngày Sao Thổ phạm vào Thái Âm.Người ngắn lưỡi nói Sao Chổi mọc ở phương Tây.Người dài lưỡi bảo có tinh vượn đen ăn mặt trời, ngày Nhật thực, nếu không yểm kỹ sông Nhị đang nảy vàng ròng sẽ ngừng.Động đất.
VIỆT HÙNGTrước đây, anh là người lừng danh, một tay "cua - rơ khét tiếng" trên xa lộ. Đã một thời anh chỉ biết chiến thắng. Người ta từng mệnh danh, anh là người sinh ra để đua xe đạp, anh không hề có đối thủ. Anh xem thường sự chiến thắng của mình, cho nó là điều hiển nhiên. Anh coi ánh hào quang của vòng nguyệt quế chỉ có tác dụng tô điểm thêm cho vẻ đẹp của mình mà thôi. Bởi, không có nó, anh vẫn là một thần tượng chẳng gì "khuất phục nổi".
NGUYỄN THÁNH NGÃĐêm nay trăng nhão, không biết là đêm trăng gì. Ở xa nhìn về đồi Kà Mạ vẫn một khối đen sì. Nếu có ai nhướn mắt nhìn thật kỹ sẽ thấy cái khối đen sì ấy nhô lên như một cái đầu người đôi mắt lấp láy đom đóm. Thỉnh thoảng gió hất cái đầu tóc rối bù xù bay về phía ruộng. Tiếng chim cú kêu mỗi lúc một thê lương, ớn lạnh từng đốt xương sống...
THÁI BÁ TÂNTháng trước, ở phường B. thị trấn Đức Giang, huyện Gia Lâm, nơi tôi về nghỉ hưu mấy năm nay, đã xẩy ra một vụ trọng án có nhiều tình tiết rất kỳ lạ, có thể nói bí ẩn không sao giải thích nổi, đến mức cuối cùng người ta quay sang cho rằng nhất định phải có yếu tố thần linh ma quỷ trong vụ này.
PHẠM THỊ ANH NGA Truyện ngắn...trái tim có những lý lẽ mà lý trí không thể nào biết được...
PHAN VĂN LỢIBuổi giao lưu và trao giải thưởng cho các tác giả đoạt giải trong cuộc thi viết truyện ngắn do Hội Nhà văn tổ chức đã tiến hành được gần nửa giờ. Gã nhấp nhỏm trên chiếc ghế kê phía sau cánh gà sân khấu, bồn chồn không yên. Chừng thông cảm với tâm trạng của gã, cô gái phục vụ mặc áo dài đỏ bưng tới cho gã ly nước, nhẹ nhàng nói: "Chú cứ yên tâm ngồi nghỉ cho khoẻ. Giải A bao giờ cũng trao cuối cùng, chú ạ!"
KHẢI NGUYÊN Pa-ri, mùa hạ năm 198...Vườn Bách thảo giữa thành phố kề sông Xen phía tả ngạn. Ông đến đây như một kẻ lánh đời, sợ nơi đông người. Thật ra, phần lớn đường phố Pa-ri trong giờ làm việc không ồn, không thừa thãi người đi nhong như ở Việt Nam. Em ông ở quê ra Hà Nội chơi đứng ngắm dòng người và xe nườm nượp qua lại cứ tự hỏi: những con người này đi đâu, về đâu mà tuôn mãi như là chẳng ai về nhà cả, như là cái "nghiệp" trời đày phải đi.
ĐỖ KIM CUÔNGNhiều năm trôi qua tôi đã trở thành người đàn ông đứng tuổi. Có một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Nhưng mỗi lần nghĩ về nàng, một người đàn bà chỉ kịp quen trên chuyến đò từ Huế ra Phong Điền, chia tay nàng để nhiều năm sau, tôi mới được gặp lại nàng trong một hoàn cảnh khác, tôi vẫn giữ nguyên một cảm giác hết sức lạ lùng. Một ý nghĩa luôn ám ảnh tôi khá kỳ quặc rằng: Tôi đã bị nàng hiểu lầm, là một chàng lính giải phóng “hám gái, dại khờ”... Bởi vì sau vụ việc ấy, chính tôi cũng rủa thầm mình là ngu ngốc.