Linh hồn Huế

16:10 06/07/2009
BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

(Ảnh: Internet)

Hoàng thân Ưng Bình Thúc Giạ Thị có câu thơ nổi tiếng, đã thành lời ca ru Huế vào mơ:

Chiều chiều trên bến Phu Văn Lâu...
Ai ngồi ai câu ai sầu ai thảm, ai thương ai cảm, ai nhớ ai trông... Thuyền ai thấp thoáng bên sông... Nghe câu mái đẩy chạnh lòng nước non...

Đó là nỗi niềm man mác hay lòng người ra đi và lòng người ở lại. Có người cho rằng đó là chiêu niệm một Công chúa Huyền Trân rời bỏ Thăng Long để nước non có thêm Châu Ô Châu Lý (tức Thuận Hoá đọc chệch ra Huế ngày nay). Lại có người cho rằng đó là nhớ về mấy ông vua trẻ tuổi, càng mất nước càng yêu nước đến đành kiếp đi đầy biệt xứ, và vị hoàng thân này than thở với kinh đô sông Hương núi Ngự...

Huế là thành phố một trong 5 di sản Việt Nam được Liên Hiệp Quốc công nhận là di sản lịch sử và văn hoá nhân loại. Không phải bây giờ ta mới yêu Huế vì danh vang đó. Huế là lòng người Việt tự xa xưa, có con sông hiền như nàng gái, có ngọn núi êm đềm như núm vú trời, có tiếng thông reo như muôn cây vĩ cầm hoà tấu, có màu tím, tím đến lạ lùng, tím đến thành thơ, tím đến thành tên riêng: Màu tím Huế. Nếu kèm theo chiếc nón trắng thì người con gái Huế nào cũng trở thành nàng thơ của bất kỳ người con trai nào lạc nẻo về đây...

Những gì của Huế là đáng yêu nữa? Không thể thống kê, giống như ta hỏi người ta yêu, và người yêu ta hỏi ta rằng: "Anh yêu em vì lẽ gì? "Em yêu anh vì cái gì?"

Những đền đài lăng tẩm vương vương hương hoa dại thoát mùi tục lụy. Những cột trụ chỉ báo, vượt lên mái nhà, vượt lên tầng cây để báo hiệu: Khu vực này có lăng tẩm nhà vua. Những món ăn ngon không phải là sơn hào hải vị tay gấu, thai báo, mà chỉ là con tôm, chút bột, con hến, hạt đỗ, mớ rau, trái ớt. Chẳng hạn bánh bột lọc nhân tôm trong suốt, bánh bèo Vĩ Dạ, bánh khoái Thượng Tứ, miếng mắm tôm chua nơi nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch họp nhau lại thành sông Hương, có tên là ngã ba Bằng Lãng (ngã ba nơi sóng bình yên).

Không thể kể hết khi ta bềnh bồng con thuyền ngược dòng Hương trong đêm trăng chênh chếch thượng huyền, nghe người ca nữ lướt gió mưa trên phím đàn tranh từ Nam ai sang Nam bằng, từ Lưu thuỷ sang Hành vân, từ Lý Năm canh sang Mười yêu, mà mặt hoa người hát với dòng sông mơ ngủ đều thành ảo ảnh suốt một đời còn lại trong ta...

Kỳ lạ thế, hoa phượng Hà Nội, Hải Phòng là mùa học trò lưu luyến, hoa phượng xứ Huế hình như đua nở quanh năm, phải chăng để thêu hoa dệt nắng lên những mái cong lâu đài đình tạ, từ cổng Ngọ Môn uy nghi đến lăng vua Minh Mạng hoành tráng một đường hoàng đạo, từ lăng vua Khải Định mang nhiều nét hiện đại đến lăng Tự Đức thâm nghiêm u tịch, từ Điện Thái Hoà đến Hiển Lâm Các, từ điện Hòn Chén đến chùa Thiên Mụ...

Phường thợ đúc đồng miền Thừa Thiên Huế nay còn bao nhiêu mà vẫn để lại kia Cửu đỉnh (chín chiếc đỉnh) và đôi vạc đồng giữa sân cỏ ngả nghiêng, cho mây trời soi bóng, cho chút bèo tấm ngủ nhờ lòng vạc... Chính vua Minh Mạng là người sai khắc vào đỉnh mọi hình khe thế núi, mọi sản vật linh thiêng, mọi con sóng áng mây, lớn như đỉnh núi Hoàng Liên, nhỏ như một nhánh tỏi lá rau, để nghìn sau ai chiêm ngưỡng 9 pho đỉnh này sẽ tăng thêm lòng yêu nước và sẽ biết phải sống thế nào để xứng đáng với Đất Nước mang trên mình những thiêng liêng quí báu đó.

Triều Nguyễn không êm đềm như triều Lý (có giặc nhưng ít), không rực rỡ dài lâu như triều Lê, không oanh liệt như triều Trần (ba lần đánh tan quân xâm lược hùng mạnh nhất thế giới) nhưng triều Nguyễn còn để lại nhiều công trình văn hoá vật thể, và phi vật thể, mà rõ nhất là khu di tích đế đô đang được bảo tồn và trùng tu, đang được thế gian chiêm ngưỡng. Những bóng rồng và hình rồng hiện diện khắp mọi nơi lộng lẫy nét vàng son cho ta mỗi lần đến Huế là một lần đắm mình vào lịch sử và văn hoá đất nước, cho ta hình dung ra chỗ hồ nước kia có ông vua già ngồi câu cá, chỗ mái hiên kia có nàng cung phi đang chải tóc, chỗ thư phòng kia có ông vua trẻ đọc sách nhưng lòng mình đặt vào nơi khác trong câu nói:

"Tay nhơ lấy nước làm sạch. Nhưng nước nhơ thì lấy gì làm sạch? Phải lấy gươm mà làm sạch..." để rồi thành kẻ đi đầy, hàng trăm năm sau mới gửi về cố quốc nắm xương tàn đau đớn...

Có một vế đối rất bình thường nhưng lại rất hay và vô cùng khó đối, nói về khu Thành Nội Huế:

Không vô trong Nội nhớ hoài.

Tách từng cặp hai chữ một, Không cũng nghĩa là Vô, Trong cũng nghĩa là Nội, Nhớ cũng nghĩa là Hoài... mà đọc liền câu thì có nghĩa là nếu không vào thăm khu thành Nội thì luôn nhớ, thì nhớ mãi... Hình như thú chơi chữ này chưa ai đối được. Huế là thế, là tinh xảo, là lịch lãm, là thanh tao và cũng là trí tuệ. Món Huế trên một mâm cơm (chưa nói đến tiệc) không bao giờ chỉ một vài, mà thường có hàng chục món, nước chấm cũng không kém số lượng đó. Nhiều nhưng thanh cảnh, mỗi món chỉ một hai miếng chứ không cần nhiều, hình như nó giống phần nào với lác đác bông hoa sen trắng trên mặt hồ Tịnh Tâm bạt ngàn màu lá sen xanh thơm ngát...

Có người nhận xét: Tiếng Hà Nội là chuẩn xác về thanh âm và ngữ nghĩa, là rành rọt về nhịp điệu, là thanh thoát về âm giai... còn Huế, là gió thoảng, là thông reo trên núi Ngự, là nhịp chèo trên sông Hương, có chút gì pha với giọng nói của hồ nữ trong Liêu Trai của Bồ Tùng Linh. Hãy nghe một từ "Dạ" của một ai đó trong khu vườn xanh đầy chim hót, trên một bến đò, trong một ngõ hẻm... mới thấy giật mình không hiểu mình vừa nghe thấy tiếng gì, là âm thanh thực hay âm thanh ảo mà nó cứ bay lên nhưng ở lại, thoảng qua nhưng thật mịn màng quay vòng tròn quanh người nghe... Phải chăng vì thế mà những điệu hò lý sông Hương mới hớp hồn tài tử thi nhân nhường ấy!

Thì cũng như mọi đô thị, mọi thành phố khác trong thời hiện đại, Huế cũng có khu buôn bán tấp nập, có chợ có phố, có quán ăn hiệu uống, có cửa hàng siêu thị, có bến xe như khu vực hai bờ sông Hương, chỗ chợ Đông Ba... nhưng đến Huế không phải là để đi chợ mua hàng như vào siêu thị Sài Gòn, mà là đi tìm cái khác. Cái khác đó chính là di sản, là văn hoá còn ẩn mình khắp nơi từ một con phố trầm lắng đến những ngọn thông vi vút trên đồi, chẳng hạn nơi đàn Nam Giao, trên núi Ngự Bình...

Sài Gòn là tốc độ. Hà Nội là hiện đại và mở mang. Huế khác. Huế có những khu vực hình như tự mình tách ra ngoài thời gian vật lý, sống với hồn mình, sống với tâm tư và hoài niệm. Khu thành nội, có những khu vườn như thế. Ai cần uống giải khát hay la đà chén chú chén anh, phừng phừng cảm giác... xin đừng đến nơi này. Đến đây là để được khoác lên mình tấm áo và chiếc mũ làm bằng bóng cây toả rộng trùm khắp xung quanh, trùm lên toàn bộ thân ta mà nghe cái gió, cái nắng đang đi qua...

Bộ bàn ghế là mấy chiếc gộc cây đã cũ hoặc mấy hòn đá rêu phong, ngay cạnh nó là những sợi rễ ngoằn ngoèo như con trăn bò đến đây tự nhiên hoá thạch... vì nó cũng lâng lâng.

Gọi tách cà phê, một tà áo dài thấp thoáng sau khung cửa, một tiếng "dạ" mơ hồ như có như không... trong khi tiếng chim âm vang cành này hay cây kia không biết, vì chỉ nghe tiếng mà chẳng thấy hình... Một điệu nhạc cổ điển bỗng vang lên. Nữ chủ nhân mở nhạc phục vụ khách hay tự khu vườn vang lên tiếng nhạc bằng nhựa cây, bằng lá reo, bằng hơi thở... Không có nhạc xập xình, cũng không quá réo rắt hay kích động... chỉ vừa đủ nghe, hoà vào tiếng tí tách giọt cà phê trong lòng tách. Cà phê vườn Huế do một "Mệ" hay một tiểu thư từng là khuê các trong nhà quan, nay thế thời thay đổi, mở hàng cho vui, cho có tiếng đời, cho cây cũng ấm hơi người, cho mắt lá cây hoà mắt người thành tri kỷ phút giây...

Từ khi Huế là một trong 5 di sản Việt Nam được cơ quan UNESCO Liên Hiệp Quốc công nhận đã có bao nhiêu khách quốc tế đến với Huế và bao nhiêu người Huế mang Huế đến khắp chân trời? Huế là một thực thể sống động, chỉ khác ở chỗ Huế vẫn là mình, có phong cách riêng, có linh hồn riêng... để Huế đang sống và còn sống trong lòng những người từng đến với Huế, dù chỉ một lần.

Không thể không nhắc đến một con ngòi nhỏ, một nhánh của sông Hương, nơi từng có con thuyền bồng nhỏ cắm sào hàng chục năm, có Ông già bến Ngự bị giam lỏng. Nơi ấy gần nhà thờ Phủ Cam, gọi là "Bến Ngự" và ông già ấy chính là cụ Phan Bội Châu, một người bất tử cùng với Huế bất tử.
Vâng, xin thưa: Huế sẽ là bất tử.

10-2003
B.S
(179-180/01&02-04)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHChùa Linh Mụ đẹp quá, nên thơ quá. Nói vậy cũng chưa đủ. Nó tịnh định, cổ kính, an nhiên, trầm mặc. Nói vậy cũng chưa đủ. Phải nói nó là một bài thơ Thiền lồng lộng giữa không gian mây nước, giữa khói sương, giữa mênh mang dâu bể và lòng người. Nó là bức tranh thủy mặc thuộc họa phái Sumiye, Nhật Bổn, mà, nét chấm phá tuy giản phác nhưng lung linh, ảo diệu; vượt thời gian và đi vào vĩnh cửu. Nó là bài kinh vô ngôn, tuy không nói một chữ, mà đã làm lắng đọng trăm ngàn xôn xao của cuộc thế; và, gợi nhắc vô biên cho con người hướng đến điều chân, lẽ thiện...

  • NGÔ MINHHuế trên 350 năm là thủ phủ Chúa Nguyễn Đằng Trong và Kinh Đô của Đại Việt đã tích tụ nhân tài, vật lực cả quốc gia tạo ra một hệ thống Di sản văn hóa phi vật thể đặc sắc và nổi tiếng như nhã nhạc, lễ hội dân gian, văn hóa ẩm thực... Trong Di sản văn hóa ẩm thực Huế, Văn hóa ẩm thực Cung đình là bộ phận tinh hoa nhất, giá trị nhất!

  • HÀ MINH ĐỨC                   Ký Sau chặng đường dài, vượt qua nhiều đồi núi của vùng Quảng Bình, Quảng Trị, khoảng 3 giờ chiều ngày 25/9/2003, đoàn chúng tôi về đến thành phố Huế. Xe chạy dọc bờ sông Hương và rẽ vào khu vực trường Đại học Sư phạm Huế. Anh Hồ Thế Hà, Phó Chủ nhiệm khoa Văn; chị Trần Huyền Sâm, giảng viên bộ môn Lý luận văn học cùng với các em sinh viên ra đón chúng tôi. Nữ sinh mặc áo dài trắng và tặng các thầy những bó hoa đẹp.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)