Linh hồn biển

14:21 01/07/2013

LÊ MINH PHONG 

Tôi cam đoan rằng một bé gái cũng có thể làm được những điều như thế. Nghĩa là tôi cũng có thể trèo lên ban-công và đi trên dãy lan can mỏng manh ấy. Điều đó thật đáng sợ.

Minh họa: Lê Minh Phong

Và cha tôi, với cái điệu khệ nệ của ông, thường rú lên mỗi khi tôi lao vào cái trò nghịch dại đó. Khi cha tôi thu mình trong phòng và lau lại những bức tranh cũ rích của ông thì tôi thường rón rén trèo lên ban-công và nhìn về phía có những đụn cát ngoài kia. Người ta nói rằng đằng sau những đụn cát đó là biển, nhưng tôi chưa bao giờ được nhìn thấy biển.

Một buổi chiều, lúc tôi đang say sưa ngồi trên tầm cao đó ngắm nhìn những con dơi bay loạng choạng trên không trung thì có một đám người xuất hiện. Họ bắt đầu xuất hiện từ phía những đụn cát và tiến về phía nhà tôi. Rồi họ đứng lại trước cổng và ngước lên nhìn tôi.

“Chúng tôi cần một ít nước.” Một lão già nói với tôi. Lão có đôi chân như chân gà đang run rẩy trong bộ dạng đói lả. “Hãy cho chúng tôi một ít nước, hãy thương xót những người đã bỏ lại linh hồn của mình trên biển.” Lão nói.

“Linh hồn nào cơ?” Tôi nói.

“Linh hồn chúng tôi. Chúng tôi lạc mất linh hồn của mình khi chúng tôi lênh đênh trên sóng.” Lão nói.

“Làm sao mà điều quái quỷ đó lại có thể xảy ra được cơ chứ?” Tôi nói trong khi một con dơi đụng phải một con dơi khác trên không.

“Điều đó đã xảy ra khi người ta bắn đạn về phía chúng tôi, đạn găm vào tất cả chúng tôi. Lúc ấy chúng tôi đang hát vì khoang thuyền đã đầy ắp cá. Thật tuyệt, những con cá xanh lơ.” Lão già lại nói. “Cháu có bao giờ trông thấy những con cá xanh như mây trời chưa?”

“Điều đó chỉ có trong phim thôi.” Tôi nói vọi xuống.

“Hãy mở cửa cho chúng tôi.” Một đứa con gái trong đám người đói rách cất lời. Nó bíu chặt lấy gấu áo của người đàn bà mù đang cố phát ra những tràng âm thanh nào đấy nhưng dường như đó là điều bất khả.

“Hãy cho tớ một nắm cơm nguội nếu cậu có thể. Hãy thương cho người bạn không có đôi mắt của mình.” Đứa con gái nói.

“Thế mắt cậu đang ở đâu?” Tôi nói.

“Ngoài khơi. Đạn gặm vào mắt tớ. Lúc ấy tớ theo ba mẹ lên thuyền. Tớ trốn trong một thùng nước, bằng cách đó tớ đã được ra khơi. Nhưng đạn đã găm vào mắt tớ ngoài khơi. Tớ mất đôi mắt của mình. Bà tớ nói mắt tớ giống như một dòng sông phẳng lặng. Tớ chưa hề được nhìn thấy một dòng sông phẳng lặng nào cả. Ba tớ bảo mọi dòng sông đều chảy.” Đứa con gái nói.

“Đúng đấy, chẳng có một dòng sông nào như mắt cậu cả.” Tôi nói.

“Hãy mở cửa cho chúng tôi.” Đám người đó dường như cất tiếng cùng một lúc.

Mở cửa cho họ là một việc làm tày trời của tôi nếu bị cha tôi phát hiện. Tôi nghĩ tới những khẩu súng trong những bức tranh của cha tôi và đôi mắt nheo lại rồi bất ngờ trợn ngược lên của ông mỗi khi ông ngồi lau lại những bức tranh của ông.

“Cháu có trái tim chứ?” Người đàn ông có lồng ngực rỗng nói sau khi đã ho và khạc nhổ xuống nền đường.

Tôi sờ tay lên lồng ngực của mình. “Có.” Tôi nói khi nhận thấy trái tim của tôi đang đập trong ngực tôi.

“Cháu đã bao giờ trông thấy một người đàn ông có một trái tim quả cảm nhưng đã bị cướp đi chưa?” Người đàn ông nói.

“Nhưng chú vẫn còn sống đấy thôi.” Tôi nói.

“Không hẳn thế. Không hẳn thế đâu. Chú bị bắn vào ngực khi chú đang cố gỡ chiếc lưỡi câu ra khỏi miệng một con cá. Cháu thấy cá kình chưa. Miệng nó rất to.” Người đàn ông đó nói và lại ho rồi tiếp tục khạc nhổ. Những người khác đã ngồi bệt xuống đường. Họ xì xào những điều gì đấy mà tôi không thể nghe được.

“Linh, mày lại chết dẫm trên cái ban-công của mày rồi phải không?” Cha tôi rống lên. Mỗi khi lau xong một bức tranh của mình, ông lại rống lên như con trâu mộng bị chọc tiết. Tôi nghe thấy tiếng bước chân của ông. “Mẹ kiếp. Điều làm tao tức tối nhất là không đuổi cổ mày ra khỏi nhà được, Linh ạ.” Cha tôi lại rống lên phía dưới.

“Mở cửa đi, hãy cho chúng tôi một ít nước.” Đám người đến từ biển khơi lại nói. Tôi không biết mình phải xoay xở ra sao trong cái hoàn cảnh này. Tôi đưa ngón tay lên miệng ra hiệu cho họ im lặng và hình như đám người đó hiểu được thông điệp của tôi.

Tôi chạy xuống rồi rón rén bước vào phòng làm việc của cha tôi. Ông vẫn ngồi thù lù trên chiếc ghế sắt ấy và lau lại những bức tranh. Ông có hàng trăm bức tranh. Nhiều nhất là những bức tranh vẽ về súng. Có những khẩu bé như bàn tay của tôi, có những khẩu dài hơn cả thân hình của tôi. Có ba khẩu trong ba bức tranh cỡ lớn mà tôi nghĩ rằng dù tôi có khoẻ đến đâu cũng không thể nhấc nổi chúng. Tôi thích những bức tranh vẽ về biển của cha. Những bức tranh màu xanh và những con hải âu cánh trắng trông như những bông hoa dại trong cất cánh bay trên biển khơi. Khi nghe thấy bước chân của tôi thì cha tôi ngước lên và nhìn tôi với khuôn mặt khắc khổ.

“Tao gõ vào đầu mày đấy. Tao làm được điều đó đấy con ranh à.” Cha tôi rít lên.

“Đi pha cho tao một tô mì. Đừng quên bỏ trứng và hành tây đấy.” Cha tôi luôn nói với tôi bằng cái âm sắc ấy.

Rồi tôi xuống bếp pha mì cho cha. Trong khoảng thời gian chờ nước sôi, tôi chạy ra đem cho đám người đến từ biển một ít nước. Tôi để nước trong một cái chậu bằng nhôm khá lớn mà mẹ nói rằng cha tôi đem nó về từ trên đỉnh Phong Nhũ. Tôi không biết ngọn Phong Nhũ ở đâu.

Đám người đó tranh nhau uống nước. Tôi tưởng tượng rằng nếu tôi chậm một vài giây nữa thì tất cả họ sẽ chết khát.

“Phong Nhũ ở đâu?” Tôi hỏi đám người đó.

“Xa lắm đấy.” Lão già ngước lên nói với tôi trong khi những giọt nước đang nhỏ xuống trên chiếc cằm héo khô của lão.

“Không tới được Phong Nhũ đâu. Phong Nhũ xa lắm.”

“Có thể tới nhưng phải bằng một phương pháp nào đấy.”

“Quên Phong Nhũ đi. Có thể cho chúng tôi một cái gì đó ăn được không? Ba ngày rồi chúng tôi không có một cái gì bỏ vào miệng.”

Đám người ấy lại tranh nhau nói trong khi tôi vẫn nghĩ về Phong Nhũ. Dù có xa thế nào đi nữa thì cha tôi vẫn có thể mang một chiếc chậu nhôm từ đó về đến nhà. Tôi nghĩ rằng một ngày nào đó tôi sẽ tìm ra được những con đường đến với ngọn Phong Nhũ. Có thể là những con đường hoàn toàn khác biệt.

“Linh.” Cha tôi thét lên.

Tôi bảo đám người cố gắng giữ yên lặng. Tôi cam đoan với họ rằng tôi sẽ trở lại ngay lập tức với một vài thứ gì đó mà họ có thể ngốn được.

“Mày có tin là sẽ phải đánh nhau không Linh?” Cha tôi nói trong khi mặt ông gần như đang chúi xuống chạm vào những sợi mì nóng.

“Ai đánh... mà đánh ai cơ?” Tôi nói.

“Đánh những kẻ ngạo ngược.” Cha tôi nói.

“Đánh những người anh em.” Cha tôi nói.

“Khi nào thì đánh?” Tôi nói.

“Khi tao lau xong những bức tranh này mày ạ. Linh ạ.” Cha tôi nói.

“Khi nào thì cha lau xong chúng?” Tôi nói và nhìn vào đống tranh đang chất lên như núi giữa phòng làm việc của ông và những bức tranh khác đã lau xong đang được treo trên tường.

“Tao không biết. Cần một khoảng thời gian dài. Mày biết không, khó nhất là lau bụi đang bám lấy trên mặt biển. Không cẩn thận là chúng sẽ rách nát ra đấy mày ạ.” Cha tôi nói và sau đó thì ông nghêu ngao ca khúc Em hôn môi ta bằng nụ của biển.

“Cha có tin là có những người không còn trái tim, không còn cái đầu, không còn lồng ngực nhưng vẫn có thể bước đi và nói năng như thường không?” Tôi hỏi cha tôi.

Ông nhìn thẳng vào mắt tôi. Những sợi mì từ miệng ông chảy dài xuống trông như bộ râu của các nhân vật trong phim kiếm hiệp của Kim Dung mà tôi ghiền vô cùng.

“Mày học đâu ra cái lối tưởng tượng đó hả con ranh?” Cha tôi nói.

“Thật đấy.” Tôi nói.

“Tao nhét cái giẻ lau này vào miệng mày đấy.” Ông lại gầm lên.

“Cha không thể thấy được. Có nhiều thứ mà những người như cha không thể nhìn thấy đâu.” Tôi nói trong khi tim mình như muốn nhảy ra khỏi lòng ngực.

“Cút ra khỏi phòng và đóng cửa lại cho tao. Tao sẽ đến trường làm việc với cô giáo của mày. Mày lại bắt đầu mơ mộng rồi đấy. Tao đã cấm mày có những lối tưởng tượng như anh trai mày. Nó đã bỏ đi vì không chịu nổi mùi của tao. Nó bảo nó cần một không gian rộng rãi cho những cuốn sách và những vần thơ dở hơi của nó. Rộng rãi quá đi chứ. Bây giờ tao cá với mày rằng nó đang gào rú với đám du thủ du thực ngoài kia. Gào rú đi. Rồi tha hồ mà gào rú...” Cha tôi lại rống lên một tràng dài. Rồi ông ngồi xuống và thở hổn hển. Tôi nhìn vào khuôn mặt khắc khổ của cha rồi phóng ra khỏi phòng và đóng sập cửa lại.

Đêm dần buông xuống. Một bé gái không còn mẹ như tôi thường thích để cho màn đêm liếm láp lên đôi mắt của mình. Tôi không bật đèn, tôi mò mẫm xuống bếp và lấy một ít cơm nguội, một ít muối mè và những con cá khô còn lại rồi lặng lẽ bước ra cổng. Đám người đó vẫn còn đợi tôi. Trong đêm tối họ không nói gì cả và cũng có thể họ không còn sức để nói nữa. Khi thấy tôi, họ ngước nhìn lên. Họ đồng loạt nhìn vào chiếc nồi của gia đình tôi trong ánh sáng vô cùng yếu ớt chưa tắt hẳn của một ngày tàn.

“Thực ra biển có những con mắt khổng lồ.” Lão già trong đám người nói. Chúng tôi cùng ngồi xuống dưới sân nhà tôi trong đêm khuya. Tất nhiên bây giờ cha tôi đã đi ngủ sau một ngày mải mê với những bức tranh của ông. “Biển có những bản tình ca của nó.” Lão già vẫn nói. “Những bản tình ca của biển sẽ cất giữ linh hồn của tất cả chúng tôi.” Một người khác trong đoàn người nói.

“Những linh hồn tội nghiệp có được gặp con mắt của biển không? Mắt biển là những vì sao. Mẹ cháu thường nói như thế khi bà còn sống.” Tôi nói.

“Đúng rồi, mắt của biển là những vì sao. Khi mọi người hò dô dưới trăng ngoài khơi, tôi đã tận mắt chứng kiến điều đó, cha tôi cũng thấy và tất cả chúng tôi đều thấy cho đến khi những con tàu đó ập đến.” Một cậu bé trạc chừng tuổi tôi nói.

“Thân hình của cậu đâu rồi?” Tôi hỏi nó.

“Tớ không biết nữa.” Nó nói.

“Nó tan biến ngoài khơi rồi.” Nó nói.

“Tớ vẫn còn cảm giác được sự xé rách ấy. Ban đầu chúng lao tới và găm sâu vào người tớ. Sau đó tớ nghe thấy một sự xé rách nào đấy rồi tiếp đến là những tiếng nổ lớn. Thật khủng khiếp. Những viên đạn ấy.” Nó nói. “Từ sự xé nát ấy chúng tôi mới bắt đầu lên bờ và chạy trốn.” Nó nói.

Tôi bước tới và định quàng tay lên vai cậu ấy nhưng tôi không thể chạm được vào người cậu ấy. Dù sao thì tôi vẫn cảm nhận được một luồng hơi nóng từ cái thân như khói ấy.

Và trong đêm khuya những người đến từ biển kể cho tôi nghe về những huyền thoại của biển. Họ nói rằng thực ra biển rất hiền hoà và sinh ra những loài cá. Biển chỉ cuồng nộ khi con người cuồng nộ. Tôi hỏi họ những nàng tiên cá có thực không. Họ nói rằng những nàng tiên cá hoàn toàn có thực và những bài hát mê hoặc đó cũng hoàn toàn có thực. Những nàng tiên cá không có những hàm răng nhọn và làm ta mê lú rồi ăn thịt ta như trong phim ảnh. Phim ảnh là trò bá láp. Họ nói thế. Những nàng tiên cá thường xuất hiện khi có trăng rồi hát cho những con thuyền đi ngủ. Tất nhiên đó là những con thuyền hiền hoà không mang súng.

Khi tôi chạm vào ngực của người đàn ông ấy thì rõ ràng lồng ngực của ông trống rỗng. Tôi khua tay trong lồng ngực ông và tay tôi đã xuyên qua khoảng trống rỗng ấy. Một lúc sau, tôi cảm giác tay mình lạnh ngắt và tôi rút tay ra trong khi người đàn ông đó cười một cách hiền hoà. Ông xoa tay lên đầu tôi và nói: “Có những thứ mà chúng ta không hề biết, phải không? Tay cháu sẽ bị đông lại như đá đấy. Cháu có thể thử bằng cách để nó lâu hơn trong lồng ngực của chú. Thật đấy, cháu tưởng tượng được không? Cháu có thể tưởng tượng được một ngày cháu được trò chuyện với một người đàn ông có lồng ngực rỗng không và lạnh giá bước lên từ biển khơi không?” Người đàn ông đó lại nói trong khi bàn tay đang xoa nhẹ lên tóc tôi.

“Lạnh lắm.” Tôi nói với người đàn ông về cái lồng ngực rỗng ấy.

“Rất lạnh.” Người đàn ông nói.

“Có thể bằng một cách nào đó làm nó ấm dần lên không?” Tôi nói.

“Có đấy, nếu có phép màu xảy ra. Cháu có tin vào những phép màu không?” Người đàn ông nói.

“Có.” Tôi nói. “Nhưng cha cháu luôn mồm phủ nhận điều đó.” Tôi nói.

Tất cả chúng tôi nằm ngửa ra sân và nhìn lên bầu trời đầy sao. Thỉnh thoảng tôi lại nghe tiếng trở mình của cha tôi và những tiếng ho của ông. “Của tôi. Đừng xé rách nó, không dán lại nổi đâu...” Cha tôi nói trong mơ. Thực ra cha tôi có những nỗi khổ riêng nhưng ông đã nuốt chúng vào ngực mình. Có mấy lần ông nói với tôi về các con tốt trong những ván cờ.

Một đứa bé thổi cho tôi nghe những bản nhạc diễm tuyệt bằng chiếc vỏ sò trong tay. Nó bảo với tôi rằng đó là lời của biển. Rồi nó úp chiếc vỏ sò đó vào tai tôi, nó bảo tôi hãy nhắm mắt và lắng nghe tiếng thì thầm của biển. Rồi trong phút giây thần tiên đó tôi nghe thấy tiếng sóng hát ca trong tai mình.

“Lời của biển đấy.” Nó nói.

“Thật tuyệt.” Tôi nói.

“Có nhiều thứ cậu không thể biết được đâu.” Nó nói rồi dúi chiếc vỏ sò vào túi áo của tôi và cả hai chúng tôi trườn đến nằm bên cạnh người đàn bà mù.

“Mẹ! Kể cho chúng con nghe về những nhà tiên tri mắt mù trên những hòn đảo hoang đó đi.” Đứa bé nói với mẹ nó. Và người đàn bà mù bắt đầu kể cho chúng tôi nghe về những nhà tiên tri mù sống đơn độc trên những hòn đảo chỉ có tiếng chim. “Bao giờ cũng thế, mù loà lại là tiên tri...” Người đàn bà mù nói. Chúng tôi lặng nghe những câu chuyện huyền bí đó, mặc dù có những thứ trong câu chuyện, có những từ ngữ trong lời nói của bà mà tôi chẳng thể nào hiểu được. Có khi bà nói đến những vì sao đậu xuống trên chiếc đinh ba khổng lồ của Poseidon. “Đôi khi biển cả rất hung bạo.” Người đàn mù nói trong đêm khuya. Bà còn nói về những gã du mục say rượu uống trăng trên mặt biển, họ nhảy những vũ điệu huyền bí rồi ngất ngưởng lang thang trên mặt biển dát vàng và tan biến đi mỗi khi sóng dâng cuồng nộ.

Chúng tôi ngủ thiếp đi. Trong giấc mơ tôi nghe ai đó gọi tên mình. Tôi tỉnh dậy và ngồi lặng nhìn những con người nhỏ bé đó đang chìm sâu vào giấc ngủ trong khoảng sân chập hẹp của nhà tôi.

“Đừng bắn con trai tôi.” Một người trở mình ú ớ.

“Túm chặt lấy tóc mẹ. Đừng để chìm xuống.” Đó là giọng của một người đàn bà.

“Dưới này lạnh lắm mẹ ơi.” Giọng của một đứa trẻ.

“Tim tôi đâu, tim tôi đâu rồi?” Một người thanh niên trở mình ú ớ, anh ấy đang gối mình lên một viên gạch vỡ phía bên ngoài sân.

Khi tôi đang mê mải rượt theo một chú thỏ con trong rừng thì lão già đó gọi tôi tỉnh dậy. Đoàn người đang nhìn tôi. Hình như họ đã thức dậy từ lâu. Họ đứng vây lấy tôi và dường như họ đang muốn nói với tôi một vài điều gì đấy.

“Chúng tôi phải đi.” Người già nhất nói với tôi.

“Đi đâu chứ?” Tôi nói.

“Rừng. Chúng tôi sẽ lên rừng. Trong sử sách, tổ tiên chúng tôi đã nói đến điều đó.”

“Trong rừng có thú dữ đấy.” Tôi nói.

“Không đâu.” Lão nói.

“Thú rừng chỉ sống trong lãnh địa của chúng, chúng tôi sẽ tìm một vùng đất mới cho chúng tôi.” Lão già nói.

“Giữ lấy chiếc vỏ sò của tớ.” Đứa con gái nói với tôi và ngay lúc đó tôi đưa tay vào túi áo nắm chặt lấy chiếc vỏ sò nhỏ bé ấy.

Người đàn bà mù bước tới sờ lên má tôi. “Mẹ con sẽ trở lại. Ít nhất cũng là trong những giấc mơ của con.” Người đàn bà mù nói với tôi.

“Chết rồi. Mẹ cháu chết rồi. Vào mùa xuân năm ngoái mẹ cháu đã chết vì bệnh tật của bà.” Tôi nói.

“Rồi những điều tuyệt diệu sẽ trở lại.” Người đàn bà mù nói với tôi và tất cả họ lên đường. Chúng tôi đã khóc. Tất cả chúng tôi, tất cả những con người yếu đuối đã bật khóc.

Tôi ngồi giữa đường và nhìn theo những bước chân vô định ấy khuất dần trong sương mai.

Tôi không biết đến khi nào thì họ quay trở lại nhưng tôi sẽ chờ đợi họ. Tôi sẽ ngồi trên ban-công nhà tôi và chờ ngày họ quay trở lại với những con vẹt rừng có muôn màu sắc đậu trên vai họ.

“Linh, giặt lại những chiếc khăn này cho tao.” Cha tôi đã thét lên. Ông luôn bắt đầu một ngày mới bằng những lời lẽ tục tằn đó.

“Đâu rồi?” Cha tôi lại thét lên.

“Gì cơ?” Tôi nói.

“Họ đâu rồi?” Cha tôi nói.

“Ai?” Tôi nói.

“Tao đẻ mày ra đấy. Mày tưởng qua mặt được tao hả Linh?” Cha tôi nói. Tay ông đang túm những chiếc khăn lau.

“Xuống bếp lấy một ít gạo và muối đuổi theo đem cho họ. Khoai và cá khô nữa, trong chum ấy.” Cha tôi nói.

“Xa rồi... họ đi xa lắm rồi.” Tôi gào lên, nước mắt tôi ứa ra, tôi nghe đắng nghét trong cổ họng.

Tôi ngồi bệt xuống trong sân. Cha tôi cũng ngồi bệt xuống trong sân. Ông cúi mặt xuống không nói. Tay ông túm chặt lấy những chiếc giẻ lau.

“Đi giặt lại những chiếc khăn này cho tao.” Cha tôi gần như rít lên.

“Trẻ con như mày không hiểu gì đâu. Làm ngay đi. Mày không hiểu được điều gì đang xảy ra đâu Linh ạ. Tao sợ chúng sẽ rách mất.” Ông ngậm ngùi nói.

Và tôi lại bắt đầu bằng một ngày mới với việc giặt lại những chiếc giẻ lau để cha tôi tiếp tục lau lại những bức tranh khốn nạn đó của ông. Tôi không biết đến bao giờ cha tôi mới lau hết những bức tranh chết tiệt đó của ông.

Chiều nay, tôi lại ngồi lên ban-công và nhìn về phía cuối chân trời, nơi có những dãy núi chìm khuất trong mây, những dãy núi mảnh mai như hàng lông mi của mẹ tôi ngày bà còn sống. Tôi tin rằng nơi đó sẽ lưu giữ những bước chân trần của họ. Bước chân trần của những người đã bị cướp mất linh hồn trên biển cả.

L.M.P
(SH292/06-13)
 



 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.

  • NGUYỄN TRƯỜNGThấy tôi ngồi chăm chú đọc thư, miệng cứ tủm tỉm cười, vợ tôi mới giả giọng, hỏi đùa:- Có việc chi thích thú mà cười một chắc rứa?- Có chuyện vui bất ngờ đấy em ạ! - Tôi vừa trả lời vừa kéo tay vợ ngồi xuống, rồi đọc lại một mạch toàn văn bốn trang thư của ba tôi từ Huế mới gửi vào.

  • VIỆT HÙNGGa H. một đêm mưa phùn ảm đạm.Khách chờ tàu nằm la liệt dọc các hành lang.Tôi bước vào phòng đợi, trong tâm trạng không vui mà cũng chẳng buồn. Tìm một chỗ ngồi bất kỳ…

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.