Một nhà nghiên cứu quân sự nhận xét rằng, trong thế kỉ XX chiến tranh ở Việt Nam đi từ trung tâm ra ngoại biên. Sau hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mĩ, nhân dân Việt Nam lại phải đương đầu với hai cuộc chiến tranh biên giới phía Bắc và Tây Nam, rồi cuộc chiến mở rộng sang đất Campuchia khi quân đội Việt Nam thực thi sứ mệnh quốc tế cao cả cứu nhân dân nước bạn khỏi họa diệt chủng Pol Pot.
Chiến tranh, đương nhiên là điều cực chẳng đã, không ai muốn, nhưng khi Tổ quốc kêu gọi thì mọi người dân Việt Nam đều sẵn lòng “xếp bút nghiên theo việc đao cung”. Đó cũng là tâm trạng, suy nghĩ của những thanh niên thuộc thế hệ 6X như nhà văn Nguyễn Ngọc Tiến và nhà biên kịch Đoàn Tuấn khi vào quân ngũ tham gia chiến tranh biên giới Tây Nam năm ấy. Và khi cuộc chiến đã qua đi gần bốn thập kỉ, những kí ức chợt ùa về, thôi thúc hai ông viết hồi kí về “một thời hoa lửa”. Lính Hà của Nguyễn Ngọc Tiến và Mùa chinh chiến ấy của Đoàn Tuấn đã ra đời như thế.
Cùng là hồi kí nhưng Lính Hà và Mùa chinh chiến ấy có sự tương phản rõ rệt về bút pháp biểu hiện. Thông thường ở thể loại này, các sự kiện được tái hiện theo trình tự thời gian tuyến tính. Sự kiện có trước kể trước, sự kiện xảy ra sau nêu sau. Nhưng trong Lính Hà, Nguyễn Ngọc Tiến không đi theo lối mòn ấy. Các sự kiện được miêu tả không theo trình tự thời gian thực mà theo thời gian tâm trạng của tác giả. Mở đầu tập hồi kí là những trang viết về cuộc chia tay gia đình, đồng đội của tác giả để vào Nam. Cứ ngỡ, tiếp theo sẽ là những miêu tả tái hiện cuộc sống và chiến đấu của Nguyễn Ngọc Tiến ở chiến trường Tây Nam rồi trên đất Campuchia, nhưng không phải. Nguyễn Ngọc Tiến lại dẫn dắt bạn đọc ngược về quãng thời gian trước đó, khi tác giả còn là học sinh với đủ trò nghịch ngợm tinh quái của lứa tuổi “nhất quỷ nhì ma”. Cứ như thế thời gian trong Lính Hà luân phiên đan xen giữa những hồi ức về quãng đời chưa tham gia chiến dịch biên giới và quãng ngày cầm súng trực tiếp chiến đấu với lính Pol Pot của tác giả. Có thể nói có một dòng thời gian nghệ thuật được người viết dụng công và dụng tâm tạo nên trong Lính Hà. Dường như Nguyễn Ngọc Tiến mang tư duy của tiểu thuyết vào trong hồi kí. Ở chiều ngược lại, Mùa chinh chiến ấy là một hồi kí đúng nghĩa với sự tuân thủ triệt để nguyên tắc tuyến tính về thời gian. Chỉ cần nhìn vào các chương, mục của tập hồi kí chúng ta cũng có thể hình dung ra diễn tiến theo dòng thời gian của các “biến cố” tác giả trải qua: chương 1: Từ biên giới vượt sông Mê Kong; chương II: Chiến dịch Anlong Veng đợt 1 - nếm mùi hiểm địa; chương III: Chiến dịch Anlong Veng đợt 2 - những vết thương không liền da; chương IV:Chiến dịch Anlong Veng đợt 3 - chia nhau cái chết, tặng nhau nguồn sống…; cứ thế cho đến chương cuối Lính chỉ mong một lối về nhà và phần Vĩ thanh gợi lên những xúc cảm của tác giả khi được về Hà Nội.
Sự khác biệt còn đến từ cách miêu tả nhân vật. Mặc dù vẫn có sự xuất hiện của những người lính thuộc các vùng miền khác nhau trên cả nước, nhưng đúng như nhan đề tập hồi kí, Nguyễn Ngọc Tiến dành bút lực tập trung miêu tả những người lính Hà Nội chiến đấu ở chiến trường Campuchia. Những chàng trai đến từ thủ đô hoa lệ như Bình ốc, T., K. … được tác giả “chăm sóc” kĩ lưỡng, tỉ mỉ hơn nhằm lột tả cái chất Hà thành, chất “lính cậu” của họ. Trong khi đó, Đoàn Tuấn lại chọn cách miêu tả nhân vật theo tinh thần mấy câu thơ của Hồng Nguyên: Lũ chúng tôi/ Bọn người tứ xứ/ Gặp nhau hồi chưa biết chữ/ Quen nhau từ thuở “một, hai”. Số nhân vật trong Mùa chinh chiến ấy có lẽ phải lên đến hàng trăm. Có người được nói đến nhiều trong cả một phần như Trung đoàn phó Võ Sỹ Lực trong Đại bàng yên nghỉ, Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Mạnh Hùng trong Vĩnh biệt Tiểu đoàn trưởng Nguyễn Mạnh Hùng… nhưng có những cái tên chỉ lướt qua đôi dòng như Hiền Nhân, Võ Đình Chiến, Nguyễn Tấn Thành, Huyền, Nhuận, Nghị, Bình… Có thể nói rằng, có cả một “thế giới con người” được nhắc đến trong hồi kí này.
Hai cuốn hồi kí còn có những khác biệt đến từ cảm hứng viết. Mùa chinh chiến ấy được viết bằng cảm hứng “tụng ca”. Đoàn Tuấn khi vào bộ đội mới là chàng trai Hà Nội tròn mười tám tuổi, độ tuổi trái tim luôn tràn đầy nhiệt huyết, khát vọng. Anh hăm hở bước ra tiền tuyến với tinh thần “Đường ra trận mùa này đẹp lắm”. Có lẽ vì thế nên trong Mùa chinh chiến ấy những câu, đoạn mang âm hưởng ngợi ca xuất hiện với mật độ khá dày, như: “Ôi những người đồng đội thân yêu của tôi - những người lính, họ vẫn thầm lặng đâu đó giữa đời thường. Bình dị thôi mà đẹp biết mấy” (Mùa chinh chiến ấy, tr.421); “Mỗi người lính quả là một thế giới diệu kì, một kho tàng tri thức dân gian. Nếu coi đó là một quyển sách hay, biết cách đọc, cách kể, chúng ta sẽ có biết bao câu chuyện tuyệt vời... Làm sao góp nhặt lại để tặng cho mỗi người, cho đồng đội tôi” (Mùa chinh chiến ấy, tr.284). Thậm chí, chỉ nhìn hình xăm đại bàng trên vai một người lính đang cáng đồng đội bị thương, Đoàn Tuấn cũng không khỏi xúc động, thán phục: “Có lẽ tôi chưa thấy con đại bàng nào đẹp thế. Con đại bàng trên lưng, từ từ vươn lên, bay theo võng cáng… Thật là một hình ảnh kì vĩ” (Mùa chinh chiến ấy, tr.27). Và anh cũng không ngần ngại bộc lộ khát vọng làm người thư kí ghi lại những khoảnh khắc anh hùng của đồng đội: “Ngay lúc ấy, tôi cảm thấy mình thật bé nhỏ giữa những con người vô danh. Như đất biên giới. Như cây rừng tóe máu. Làm sao ghi lại những hình ảnh, những câu chuyện của họ” (Mùa chinh chiến ấy, tr.28).
Còn Nguyễn Ngọc Tiến, anh bước vào cuộc chiến với sự điềm tĩnh, chín chắn cần thiết của người đàn ông đã trải qua ít nhiều những va vấp trong cuộc sống. Vì thế nên bầu không khí trong Lính Hà không có những rạo rực, đắm say như trong Mùa chinh chiến ấy mà hiện lên như nét trầm lắng của phố phường Hà Nội. Nguyễn Ngọc Tiến nghĩ nhiều, suy tư nhiều về mình, về đồng đội, về quân địch, về người dân Việt Nam và Campuchia, về xã hội hai nước trong cuộc chiến. Những suy tư của một người đi vào cuộc chiến với tư cách là một người lính “ứa đầy nhiệt huyết với lẽ sống thiêng liêng: tất cả vì Tổ quốc mình, vì dân tộc mình” (Lính Hà, tr.6). Sự khác biệt ấy hiện diện ở ngay cái kết của hai cuốn hồi kí. Cái kết của Mùa chinh chiến ấy tràn ngập không khí vui vẻ, hạnh phúc trong ngày đoàn viên khi Đoàn Tuấn cùng bạn bè “lên Tràng Tiền ăn kem” (Mùa chinh chiến ấy, tr.441), còn trong Lính Hà Nguyễn Ngọc Tiến lại khiến bạn đọc không khỏi trầm ngâm, ngẫm ngợi về một cái kết lửng lơ đầy khoảng lặng: “Tôi về đến Hà Nội đúng sáng ngày 31/12/1981. Cha mẹ tôi mừng rơi nước mắt vì tôi về nhà lành lặn. Mẹ tôi làm phở bò. Tôi vừa ăn vừa nghĩ đến tương lai” (Lính Hà, tr.269).
Tuy nhiên những khác biệt về bút pháp biểu hiện ấy không phải là ấn tượng sau cùng khi gấp lại hai cuốn hồi kí. Tôi tin rằng những gì còn đọng lại trong tâm khảm bạn đọc sau khi đọc Lính Hà và Mùa chinh chiến ấy là sự chân thực, xúc động về hình ảnh người lính tình nguyện Việt Nam trên đất Campuchia. Hai cuốn hồi kí ngồn ngộn những chi tiết với đủ các sắc thái đậm chất lính, không thể nào “bịa” ra được và chỉ có người trong cuộc mới thật sự thấu hiểu. Bi hài đến thắt ruột cảnh bộ đội… tắm truồng vì “quần đùi chưa khô” (Lính Hà, tr.183); dùng… phân người rang cho khô và “kiếm nước nóng đổ vào rồi múc ra từng bát, cho anh em uống” để chữa bệnh đau bụng (Mùa chinh chiến ấy, tr.283); cảm thông ngậm ngùi khi những người lính phải lén lút chia nhau “ăn nằm” với tấm ảnh “chân dung toàn thân một em tóc vàng mắt xanh, trăm phần trăm gái Mĩ” có kích cỡ bằng người thật để giải tỏa nỗi ậm ạch sinh lí (Mùa chinh chiến ấy, tr.274); hồi hộp đến đứng tim lúc một người lính thoát chết trong “đường tơ kẽ tóc” khi giẫm phải mìn KP2 (Lính Hà, tr.227); đau thương, xót xa vô cùng với chi tiết “ngơ ngác hai gôn không lưới, phía sau xếp một dãy quan tài cao ngất… Vài ngày là hết thôi mà” (Lính Hà, tr.31); xúc động, mến phục trước hành động làm bảng đen bằng cách “lấy ruột pin, trộn lá khoai lang, chà lên mặt gỗ” (Mùa chinh chiến ấy, tr.97) của bộ đội ta giúp cô giáo Campuchia dạy các em bé học giữa hoang tàn đổ nát… Tất cả những chi tiết ấy đều làm toát lên hình ảnh cao đẹp của quân đội Việt Nam trong việc làm tròn sứ mệnh quốc tế cao cả, một sứ mệnh không chỉ đến với “quân lệnh như sơn” từ cấp chỉ huy cao nhất mà xuất phát nhiều hơn từ trái tim yêu hòa bình, từ lòng nhân ái bao dung của người chiến sĩ Việt Nam nói riêng và nhân dân Việt Nam nói chung. Tất nhiên ở đâu cũng có những chuyện không tốt đẹp. Nguyễn Ngọc Tiến và Đoàn Tuấn không hề né tránh hay “lờ đi” những sự thật đáng buồn của người lính như vô kỉ luật, đào ngũ, tự thương, chơi xấu đồng đội… trong hồi kí của mình. Tuy nhiên đó chỉ là những “góc tăm tối” nhỏ bé nằm khuất lấp trong bức tranh chung rộng lớn, khoáng đạt, tươi sáng về quân tình nguyện Việt Nam anh hùng mà Lính Hà và Mùa chinh chiến ấy đã tái hiện.
Theo Tâm Anh - VNQD
Sách của nhà phê bình khơi gợi tình yêu cuộc sống qua những vẻ đẹp giản dị, nhân văn.
Tưởng nhớ nhà thơ Gia Dũng
Nhân ngày sách Việt nam lần thứ 6, NXB Phụ nữ ra mắt hàng loạt ấn phẩm mới với nhiều ưu đãi hấp dẫn tại công viên Thống Nhất, Hà Nội.
Nhà xuất bản Kim Đồng phối hợp với Thư viện Quốc gia Việt Nam tổ chức chương trình giao lưu ra mắt tập tản văn của tác giả Thái Kim Lan “Mai rồi mưa tạnh trong xuân”. Chương trình có sự tham gia của tác giả Thái Kim Lan, nhà văn Lê Phương Liên và nhà thơ Nguyễn Hữu Quý.
Thời gian cứ trôi, các thế kỷ nối tiếp nhau chảy hoài. Thế hệ lớp trước sẽ chẳng đọng lại gì nếu như không có lịch sử ghi lại những biến thiên, những nhân vật lịch sử. Những lớp vỉa lịch sử như tầng phù sa nuôi dưỡng thế hệ sau. Để cho cuộc sống thăng hoa hơn, thêm phần ý nghĩa, con người hiện đại càng tìm thấy ở lịch sử nguồn cảm xúc vô tận để sáng tạo, nhất là trong lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Nhà văn Võ Văn Trực, người được mệnh danh là “Nhà văn của làng quê”, những câu chuyện ông viết ra khiến người ta không khỏi khâm phục. Đôi khi, nói đến các nhà văn, người ta nghĩ tới những con người bay bổng, lãng mạn, thi vị hóa cuộc đời này, nhưng Võ Văn Trực lại là con người của cuộc đời chân thực, lầm lũi và vạm vỡ khác thường.
Hướng đến Ngày Sách Việt Nam (21/4) và kỉ niệm 74 năm ngày chiến thắng phát xít (9/5), sáng 7/4/2019, tại Hà Nội, Wings Books - thương hiệu sách trẻ của Nhà xuất bản Kim Đồng đã tổ chức buổi tọa đàm SỐ PHẬN CỦA NHỮNG ĐỨA TRẺ TRONG THẾ CHIẾN II và giới thiệu, ra mắt hai cuốn tiểu thuyết lịch sử về chủ đề này, đó là Max - bi kịch của chủng tộc thượng đẳng của nhà văn Pháp Sarah Cohen-Scali và Cây vĩ cầm Ave Mariacủa nhà văn Nhật Bản Kagawa Yoshiko.
Với mong muốn bảo tồn và giới thiệu lại những tác phẩm tiêu biểu trong dòng sách "Học làm người" của học giả Hoàng Xuân Việt, Sống - Thương hiệu sách tác giả Việt kết hợp cùng NXB Thanh Niên vừa giới thiệu đến độc giả một số tựa sách tiêu biểu trong tủ sách "Học làm người” của ông.
Sách như một biên niên ký về đô thị vùng cao trong hai mươi lăm năm (1950-1975).
Nhân dịp Hội Sách TP Cần Thơ lần thứ 3, diễn ra từ ngày 25 đến 31-3, NXB Kim Đồng mang đến hơn 2000 đầu sách phục vụ thiếu nhi, giới trẻ và các bậc phụ huynh, gồm các mảng sách: văn học, lịch sử - giáo dục truyền thống, kỹ năng, khoa học - nghệ thuật, tranh truyện, comic... Trong đó, có hơn 200 đầu sách mới, gần 100 đầu sách tiêu điểm.
Sau các nhà văn lớp trước lấy những chữ ghép tên quê hương thành bút danh như Tản Đà, Tô Hoài, Nam Cao, Thu Bồn, Bình Nguyên Lộc, nhiều nhà văn hiện đại cũng tiếp tục giữ “xu hướng” này.
Nhân dịp ra mắt tủ sách “Thiên đường không tuổi”, NXB Văn hóa - Văn nghệ vừa tổ chức buổi trò chuyện văn chương cùng chủ đề với sự tham gia của các nhà văn thuộc nhiều thế hệ. Đây là dịp để các tác giả cùng nhìn lại vai trò của dòng văn học dành cho độc giả tuổi mới lớn.
Bạn đọc cả nước, đặc biệt giới báo chí - truyền thông biết đến Phạm Quốc Toàn với góc độ là nhà quản lý và hoạt động báo chí. Trưởng thành từ Báo Quân đội Nhân dân, sau gần nửa thế kỷ làm báo chuyên nghiệp, Phạm Quốc Toàn làm tổng biên tập nhiều cơ quan báo chí. Thêm nữa, 2 khóa liền (2005 - 2015), ông là Phó Chủ tịch chuyên trách Hội Nhà báo Việt Nam.
Thời gian gần đây, thị trường xuất bản trong nước cùng lúc giới thiệu đến độc giả nhiều đầu sách có chủ đề về cái chết. Tuy nhiên, những đầu sách này không mang màu sắc u ám hay bi quan, mà nó trở thành kỹ năng mềm giúp người sống, kể cả những người cận tử có được sự bình thản, an nhiên và hạnh phúc hơn.
Ngày 24-2, tại Di tích quốc gia đặc biệt Khu lưu niệm Đại thi hào Nguyễn Du (xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh) đã diễn ra lễ phát động hai cuộc thi: “Sáng tác văn tế Đại thi hào Nguyễn Du” và “Bạn đọc thuộc Kiều”.
Sau năm ngày làm việc sôi nổi, say mê và hào hứng, tối 20/2, hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam lần thứ IV và Liên hoan thơ quốc tế lần thứ III đã chính thức khép lại.
Văn học, thi ca giúp rút ngắn mọi khoảng cách là ghi nhận của hầu hết các đại biểu tham dự Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam lần thứ IV, Liên hoan thơ quốc tế lần thứ III do Hội Nhà văn Việt Nam tổ chức, khai mạc trọng thể ngày 16/2, tại Hà Nội.
Ngày 13/2, tại Hà Nội, Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức họp báo thông tin về Hội nghị quốc tế quảng bá văn học Việt Nam lần thứ IV, Liên hoan thơ quốc tế lần thứ III và Ngày thơ Việt Nam lần thứ XVII.
Đã ba mươi năm tròn (1989-2019), nhà văn Nguyễn Minh Châu vĩnh biệt chúng ta vào độ trăng rằm của tài năng sáng tạo. Tết Kỷ Hợi này văn giới Việt Nam lại tưởng nhớ đến ông, một “người mở đường tinh anh” trong công cuộc đổi mới văn học.
Sau nhiều năm gần như ở ẩn, nhà văn Nguyễn Xuân Khánh “tái xuất giang hồ” vào năm 2000 ở tuổi xấp xỉ 70 với tiểu thuyết Hồ Quý Ly đình đám.