Con mụ rõ là điêu, lòng đã ngả mùi mà vẫn nói là mới luộc lúc sáng. Hắn chợt thấy phía bụng trên trồi lên một cục to. Cái cục đó cuộn chạy xuống phía bụng dưới rồi thắt lại. Hắn ngồi bật dậy. Hình như trong nhà có tiếng động. Trộm à? Mùa hè, hắn thường ra nằm trên bể nước mưa trước sân, cửa không chốt, chỉ khép hờ. Đứa nào đã theo dõi biết được lẻn vào trộm quạt đây. Hắn nhẹ nhàng trườn xuống phía sau bể. Chuyến này ông cho thằng trộm to gan này biết tay. Muỗi nhiều quá. Cái lưng trần cứ phơi ra. Hắn ngồi im không dám cựa. Máu rần rật trong người. Phải kiên nhẫn. Hắn tự nhủ mình vậy. Sao lâu thế? Trong nhà chỉ có cái quạt là dễ lấy. Nó vác ngô lúa làm gì. Hay hắn cạy sập tìm tiền. Làm quái gì có tiền. Dạo này rảnh rang mùa vụ, hắn mới đi làm đá, đã bán được đâu. Vợ hắn giục "Bố mày không đi, người ta đập tan cái lèn rồi mới tiếc". Hắn lấn cấn. Không phải vì hắn nhác. Sức vóc như hắn làm đá mới thỏa. Với lại, có tiền ai không thích. Nhưng hắn mê tín. Các cụ trong làng nói hòn lèn này thiêng lắm. Mà thiêng thật. Hồi chống Pháp, cả làng này không còn một mống đàn ông. Đàn bà ở nhà làm ruộng, nuôi tằm. Vậy mà trận càn nào Pháp vào đến đầu làng đã chết như rạ. Không trời Phật thánh thần bắt chúng thì còn ai vào đó. Rồi những năm Mỹ ném bom miền Bắc, hòn lèn cứ trơ ra, sừng sững, hiên ngang, không mảy may sạt lở. Lại nữa, trong làng có ông lang Sằn chữa khỏi đủ thứ bệnh, mà thuốc có đâu xa, hái trong lèn này cả đấy chứ. Vợ hắn lại giục, hắn lại lần lữa. Trước đó, khi người ta mới bắt đầu khai thác, nung vôi bán đá cho người ngoài thị trấn xây nhà, hắn đã nghĩ đến chuyện đi làm. Độ này người ta xây nhà nhiều lắm. Cả một dọc ruộng dài ven đường quốc lộ xã đã bán đất, toàn nhà đang xây cả. Tám cái lò vôi ngày đêm nhả khói trắng thối hoăng hoắc mà vẫn không đủ vôi bán. Rồi ngày ngày xe ben, xe công nông chạy rùng rùng chở đầy đá, bụi tung bạc cả mái ngói. Hắn thấy cũng sốt ruột. Vợ hắn nói đúng. Không đi, người ta xơi tái cái lèn rồi lại tiếc. Nhưng hắn vẫn rờn rợn. Mạnh thọt là người đầu tiên rủ Năm cả với Thành loe chung nhau vốn xây lò vôi. Mạnh thọt bán con nghé tơ được hơn một triệu. Bọn kia thâý hắn quyết nên cũng liều. Ngay hôm dỡ lò vôi đầu tiên, thằng trai cả nhà Mạnh thọt thụt chân xuống lò bỏng nửa người dưới. Lang Sằn chữa đã ba tháng rồi mà vẫn chưa dậy được. Dân làng còn nói có đi được thì sau này lấy vợ cũng chỉ nuôi con người ta. Kế đó mấy ngày Thành loe lại bị đá lăn dập bét bàn chân trái. Nói đâu xa, tháng trước Năm cả trực đốt lò, vợ ở nhà ngủ với ông anh chồng. Hóa ra họ tình ý với nhau từ lâu, có cái lò vôi họ mới nhiều cơ hội. Cái làng này loạn từ khi phá lèn Voi. Có tí tiền, đàn ông sinh uống rượu, đàn bà sinh nhác ruộng vườn, trẻ con ti toe hút thuốc lá, đánh bạc. Anh em họ tộc thì đánh nhau vì tiền nong chung chạ rồi chia chác không sòng phẳng. Hắn sợ kể cũng phải. Con mụ Thìn béo lúc chiều nói toe toe: "Cái lèn Voi mà như cái nồi cơm Thạch Sanh thì thích nhỉ. Phạt góc nọ nó lại đùn góc kia. Được thế làng này khối nhà phất". Cụ Hà vác cuốc ngang qua nghe thâý chép miệng. Phất phơ gì. Thế làng này đẹp là có lèn Voi. Đầu làng gối lên lèn. Chân làng choãi ra cánh đồng. Dọc làng là đường quốc lộ.Thời chiến thì an toàn. Thời bình thì thuận hòa, yên ả. Cả cái huyện này mới có một hòn lèn.Quí quá. Không chỉ quí vì hiếm mà còn quí bởi vì tình. Những năm chống giặc không có những cái hang trong lèn Voi thì... Thế mà mới hơn ba tháng hòn lèn đã sạt gần một nửa. Những tảng đá xanh bị phạt lở ngổn ngang. Hòn lèn như cái đầu lâu ngoác rộng mồm lởm chởm những răng là răng. Ngày ngày nghe tiếng mìn nổ, nghe tiếng búa chan chát, ông Hà thắt hết cả ruột. Tháng trước ông có lên trên huyện gặp thằng bạn chiến đấu cũ nói với nó việc cứu hòn lèn. Nó ừ hữ: "Cái đâý là do xã, do làng trực tiếp quản lý. Ừ.Rồi thì huyện sẽ có biện pháp". Tổ sư nó, còn sống nguyên vẹn đến giờ phải biết ơn lèn Voi chứ. Ông Hà hậm hực ra về. Cũng chẳng trách dân được, không có tiền họ phải kiếm tiền. Đẹp đâu không biết. Di tích lịch sử đâu không biết. Một ngày đập đá cật lực được hai khối đá hộc, nổ mìn thì gấp bốn lần, một khối bán cho lò vôi được bảy nghìn, bán cho công nông, ô tô thì được bảy ngàn rưỡi. Làm gì ra. Ba đứa trẻ con đập mót đá dăm năm ngày một khối hai mươi ngàn. Tiền cả đấy chứ. Lao động chính đáng đấy chứ. Nhưng ông Hà cứ đau nhói. Bà Hà thở dài: "Ông già rồi, cứ đi lo lẩn thẩn. Người ta làm đá lấy tiền đấy chứ có ăn cắp ăn trộm gì đâu". Ông Hà quắc mắt: "Bà thì biết gì". Mồm cái đầu lâu ngày một ngoác ra. Cứ cái đà này chẳng bao lâu nữa đi tong cái lèn Voi. Thế là hết. Sau này có giàu lên, có nhiều tiền cũng không xây lại được. Ông Hà xót xa. |
Có thể cô gái ấy đã trồi lên từ thủy cung do thủy triều xuống quá nhanh. Một nửa thân hình của cô từ dưới eo trở lên, hoàn toàn khỏa thân nhô ra khỏi mặt nước.
Mặt trời như còn ngái ngủ. Cùng với cánh cò trắng từ đâu bay về sáng nay, tôi bần thần chờ đợi một điều gì đó. Nó mong manh và đằm thắm theo về với cơn gió lạnh. Như mặt trời vẫn thập thò, như đường về mệt mỏi, như hàng cây đìu hiu. Vừa gần gũi tưởng có thể ôm giữ được mà cũng vừa cách xa vời vợi.
Hôm qua nghe đài, có một cái tên giống hệt người thân của mình đã mất tích trong chiến tranh. Rồi một tên khác, kế tiếp một tên khác với hòm thư toàn những chữ số. Hai anh em tôi nhìn nhau. Đã biết bao lần anh em tôi nhìn nhau như vậy. Từ khi con bé thiên thần kia còn chưa biết khóc vì buồn.
ITiệc có vẻ sắp tàn. Nàng đứng lặng lẽ gần cửa ra vào đưa mắt bao quát căn phòng rộng. Đèn chùm sáng trắng. Nhạc êm dịu trong phòng hôn lễ đã giúp nàng tự tin hơn khi bước chân vào có một mình với bộ đồ xoàng xĩnh đang mặc.
Bây giờ thì Hồng sắp được gặp chị. Người chị mà suốt những năm tháng đi xa, ở đâu Hồng vẫn luôn nghĩ tới. Cứ mỗi lần như thế, một tình cảm thân thương choán ngập tâm hồn Hồng.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rồ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Bác Hai đang ngồi trước mặt tôi, lặng im như pho tượng. Đôi mắt bác đăm đăm không chớp, nhìn về một cõi xa xăm mà tôi đoán chừng là ở nơi ấy chắc chắn có những kỷ niệm vui buồn về người em trai của bác, chính là cha tôi.
Cuối năm, Đài truyền hình liên tục thông báo gió mùa đông bắc tràn về, miền Tây Bắc nhiệt độ 00C, khu vực Hà Nội 70C...
Tôi tạm xa Hà Nội một tuần. Cũng chẳng biết là phải xa hay được xa nữa. Bố mẹ phái: - Cho con Hạ đi ăn giỗ!
Tặng anh Hữu Ngọc, anh Đoàn, Lành - Ngọc Anh. Tưởng nhớ chị TâmHảo không có giấy mời. Có thể những người bạn cũ của anh ở Huế cũng đã nghỉ hưu cả rồi, hoặc giả họ bận trăm công ngàn việc nên cũng chẳng nhớ anh ở đâu mà tìm... Song điều ấy không quan trọng.
Chiến tranh biên giới Tây Nam kết thúc, nhận tấm thẻ thương binh, tôi trở về quê nhà. Để bớt gánh nặng kinh tế cho gia đình, tôi dã dành tất cả số tiền chính sách nhận được mở một quầy sách báo. Khách hàng của tôi khá đông.
Ông Biểu đột ngột nằm xuống. Tưởng như mọi cái đâu vào đấy. Như linh cảm trước, cuối năm con hổ, ông Biểu đã sắm cỗ áo quan dạ hương thơm nức. Xe cộ cần bao nhiêu chẳng có. Mọi thứ nếu muốn, chỉ sau một tiếng “alô” là tha hồ.
- Mẹ nếm thử xem. Con cho thêm một tý đường nữa nhé.Tôi ngừng tay bên rổ rau sống xanh um cầm lấy thìa nước chấm nhấm nháp lắng nghe vị vừa chua vừa ngọt vừa bùi bùi tan ra trên đầu lưỡi: - Một thìa nhỏ nữa thôi con. Ngon rồi đấy.
Nó tỉnh dậy. Sương lành lạnh, thời tiết thật khắc nghiệt, ban ngày trời nắng như thiêu như đốt. Khẽ co ngón tay, một cảm giác đau buốt suốt từ đỉnh ngón chạy vào tim, xương sống như có luồng điện chạy qua. lạnh toát.
Chuyện kể rằng ở xóm Đồng có một gia đình hiếm con lắm, chữa mãi đến năm chồng 45 tuổi, vợ 40 tuổi mới có mang.
Khúc sông lặng lẽ như thói quen của nó vẫn lặng lẽ vào mùa thu nước kiệt. Bây giờ, dòng chảy chỉ còn là một dải nông lờ, xuống đến tận mép nước mới nghe được tiếng chảy róc rách như tiếng nói thầm.
“Ai cũng biết rằng tạo hóa sinh ra đất, nước, cây cỏ, chim muông, thú vật... và con người. Động vật có trước con người có sau. Như vạy họ là tiền bói của con người. Đã không thờ kính tiền bối, lại làm điều ác với họ, con người phải gánh chịu lấy hậu quả. Âu đó cũng là lẽ trời...!”
Chủ nhật, tôi đến thăm một người bạn quen nhưng không thân lắm ở bên kia Cầu Kho, phía Tây Bắc thành phố. Đã dăm bảy năm nay tôi không gặp anh, mặc dù đã biết anh chuyển về dạy ở Đại học Nông Lâm khá lâu.
Truyện ngụ ngôn của TRIỀU NGUYÊN
Truyện ngắn “Sóng ngoài khơi” đã tránh được gần như tất cả những trò “dỏm” của nhiều người cầm bút hôm nay: Viết về tình dục với cung cách ồn ào như thể đây là món tân kỳ về tư tưởng và nghệ thuật nhưng thật ra chỉ cho thấy thói a dua thời trang và sự thiếu hiểu biết về văn chương đương đại. Với một bút pháp tinh tế, thông minh, và kiềm chế, “Sóng ngoài khơi” đã thể hiện được bản lãnh văn chương của một tác giả trẻ khi đụng tới đề tài nằm ngoài kinh nghiệm bản thân như Khánh Phương. PHAN NHIÊN HẠO