HỒ THẾ HÀ
Lê Văn Ngăn, sinh ngày 15 tháng 01 năm 1944, tại Quảng Thọ, Quảng Điền, Thừa Thiên Huế. Học, trưởng thành và tham gia phong trào học sinh, sinh viên yêu nước ở Huế (1965 - 1975). Là phóng viên Đài Phát thanh Huế (1975 - 1978).
Nhà thơ Lê Văn Ngăn
Sau đó, vì duyên nợ, anh chọn nơi lập nghiệp, sinh sống và sáng tác thứ hai của mình ở Quy Nhơn, Bình Định; nguyên là Phó Tổng Biên tập Tạp chí Phương Mai, Phó Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Định (1997-2002). Ông tốt nghiệp Đại học Báo chí; Hội viên Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, Hội viên Hội Văn nghệ Bình Định, Hội viên Hội Nhà báo Việt Nam, Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam.
Tác phẩm chính đã xuất bản: Không kể nhiều bài thơ in ở báo, tạp chí trung ương và địa phương đến nay chưa tập hợp và in thành thi tập, Lê Văn Ngăn có 3 tập thơ được ấn hành với 3 thời khoảng khác nhau.
Vào một thời im bóng (Tập thơ - 1974). Đây là tập thơ in bí mật dưới chế độ Sài Gòn, được tuổi trẻ học đường miền Nam rất thích và hưởng ứng vì ý thức công dân và tinh thần yêu nước, phản kháng kẻ thù xâm lược, xứng đáng đại diện cho tâm thức và lòng yêu nước của tuổi trẻ miền Nam lúc bấy giờ.
Kế đến là Viết dưới bóng quê nhà (Tập thơ - 2008), tập thơ thể hiện tiếng nói trữ tình công dân, trữ tình đời tư và thế sự thâm trầm, sâu sắc, giàu trải nghiệm của nhà thơ trên đường biên cuộc sống từ thời chiến chuyển sang thời bình. Ở đấy, mọi vui buồn, ân nghĩa quanh đời hòa quyện vào nhau, tạo thành giọng điệu thơ vừa sảng khoái, tự hào, vừa trữ tình, tự vấn, vừa đề xuất nỗi niềm nhân thế theo cảm xúc và cảm thức riêng của nhà thơ.
Và gần đây nhất là Thơ Lê Văn Ngăn (Tập thơ - 2015), tập thơ tuyển như một kết tinh cả đời thơ Lê Văn Ngăn. Có thể xem đây như một tổng kết bằng thơ về tất cả những hiện thực đời sống và hiện thực tâm trạng theo trục thời gian mà nhà thơ - với tư cách là chủ thể trữ tình tự thuật và chủ thể trữ tình nhập vai một cách chủ ý và nồng nhiệt để viết về quê hương, về đất nước, về con người, về bằng hữu và người thân, về những triết lý, nghiệm sinh cuộc sống một cách chân thành và rung động, tạo thành phong cách thi ca - thi sĩ riêng của Lê Văn Ngăn.
Tất cả những gì thuộc về phong cách sáng tạo riêng đó được Lê Văn Ngăn tóm tắt trong quan niệm văn chương rất nhất quán và tích cực, thể hiện tâm thế và trách nhiệm công dân, trách nhiệm nhà thơ một cách sáng rõ: “Con đường nào cũng vậy, cũng có hai chiều. Nhưng dòng thời gian, chỉ một chiều đi tới và không ngừng chuyển tải mọi việc về một quá khứ lãng quên. Làm sao có thể vạch được chiều âm trên dòng thời gian để ngược đường tìm lại những ký ức và làm phong phú hiện tại của cuộc đời bằng những ký ức ấy? Giải đáp của câu hỏi này hình như chỉ có thể được thực hiện bởi những người làm văn học nghệ thuật. Một mối tình đã mất, một thời tuổi trẻ đã qua rồi, những biến động lịch sử… tưởng đã khuất bóng dưới bàn tay xóa hết dấu vết của thời gian, nay lại tái sinh trong tác phẩm văn học nghệ thuật.
Có phải văn nghệ sĩ là người đối nghịch với sự tàn phá của thời gian? Là người lưu trữ những di sản của con người? Là người cung cấp những thông tin nhân văn mà không một chiếc máy vi tính nào có thể cung cấp nổi” (Nhà văn Việt Nam hiện đại, in lần IV, Nxb. Hội Nhà văn, 2010).
Toàn bộ thi giới Lê Văn Ngăn chính là cụ thể hóa một cách sinh động và đa dạng cho quan niệm đó. Thơ trước hết và trên hết phải là tiếng nói trực tiếp, chân thành của trái tim nhà thơ với tình yêu của chính mình và tình yêu cuộc sống. Nhờ vào cuộc sống và con người để nhận ra chính mình là quy luật và cũng là kinh nghiệm sống của mỗi phận người:
Em ơi, người bạn đời ơi
nếu chỉ một mình, anh không thể nhìn ra sự thật
Xin em hãy áp sát vẻ đẹp vào tâm hồn giá lạnh của anh
để anh biết cuộc đời vẫn mạnh hơn sự chết.
(Cảnh tượng)
Nhà thơ sống trong sự sống thật của cuộc đời, rất cụ thể như những gì vốn có ở sự vật và hiện tượng, không thể giả tạo và tự đánh lừa cảm giác của chính mình:
chúng tôi bắt đầu sống một cuộc đời không trừu tượng
không rộn ràng bằng tiếng vỗ tay trong rạp xiếc
không đẹp như bóng người trong các văn bản
chúng tôi sẽ sống và chết như một cảnh vật
không màu sắc
(Trên những dấu rạn vỡ)
Muốn vậy, nhà thơ không thể không dựa vào những điểm tựa và sức mạnh tinh thần bền vững nhất, đó chính là quê hương - nơi chôn nhau cắt rốn của nhà thơ, nơi cội nguồn của sự bắt đầu và sự kết thúc sự sống của mỗi đời người như những dòng sông vẫn chảy từ nguồn về đường chân trời bình yên và giông bão để thanh lọc, để tắm mát hai bờ cây trái:
tôi đã lớn lên bên những dòng sông
thường trở về bên những dòng sông, những cuộc ra đi thất bại
những dòng sông chảy rất xa những thứ tỵ hiềm
chảy rất xa đám anh hùng, những kẻ thừa cơ, những tên ngụy tín
những dòng sông để mặc từng cánh bèo trôi những cành củi mục
những dòng sông chẳng cho tôi biết
giữa lòng người, hận thù ở lại
nơi ấy, những người bạn đi cùng tôi, đã rẽ qua con đường khác
nơi những mái trường im lặng những cây phượng lẻ loi
những bóng mùa thu xao xác
những lá me bay một mình
nơi ấy, trong mịt mù của những ngày nghèo khó, tôi thầm nói
những ngày yêu nhau ấy thật buồn
có lẽ nên bắt đầu lại
(Bên những dòng sông)
Chính quê hương là nơi khởi đầu và nơi kết thúc một vòng luân hồi đời người để con người nhận ra sự vĩnh hằng của mọi mơ ước sẽ không bao giờ tắt lụi, bởi những gì con người ước mơ và lưu lại sẽ còn mãi trong những hiện hữu không thuộc về họ nữa: “Quê hương quê hương, nơi trái tim tôi rung động dưới bầu trời sao/ nơi tôi muốn được nhắm mắt dưới lòng đất quen thuộc”. Bởi vì cái chết, sự từ giã mãi mãi là việc của con người, nhưng những gì còn lưu giữ được lại thuộc về tinh thần của sự sống:
quê hương quê hương, nơi trái tim tôi rung động dưới
bầu trời sao
nơi tôi muốn được nhắm mắt dưới lòng đất quen thuộc
chết cho tình yêu
đấy là việc của con người
(Sóng vẫn đập vào eo biển)
Thơ Lê Văn Ngăn là thơ của sự sống thật, thơ của những gian khó và hệ lụy của cõi người trên hành trình họ đi tìm tự do, yêu thương và hạnh phúc đích thực. Ở đó, con người phải biết hy vọng: “rực rỡ thường che giấu sau những tường vách hoang tàn/ nên chúng tôi hy vọng những mảnh đời xơ xác”. Dù đời con nhiều mơ mộng, nhưng giấc mộng không được tự xoa dịu và ảo tưởng với chính nó. Hãy đừng bước qua sự thật của lòng tin:
bước ra khỏi giấc mộng, chúng tôi thấy mình như
những người khác.
chúng tôi thấy mình làm bằng những khu vườn, bằng biển
bằng những cánh đồng
lý thuyết là việc của người đóng kịch
nhưng chúng tôi
chúng tôi sống bên ngoài sân khấu.
(Khu chung cư số 10)
Hy vọng cũng chính được bắt đầu từ đó. Bởi nó được lọc qua năm tháng đời người: “Tôi có trong tâm hồn tôi một chút giá rét/ bao nhiêu năm, qua giá rét và đối cực của mùa đông/ tôi thường lắng nghe tiếng chân mùa xuân bước lại gần/ Từ đấy, tôi tin: cuối con đường tuyệt vọng chẳng phải là sự chết/ nhưng chính là niềm hy vọng” (Tôi có).
Ở đó, tình yêu là năng lực lớn nhất, có khả năng đánh thức lòng tốt và xác tín những chân lý hằng cửu. Tình yêu của người tốt bao giờ cũng giống nhau ở sự sáng suốt đạo đức và sự thành thật của hai trái tim không giả trá, đớn hèn:
Lâu năm, dù chưa gặp lại em
tôi vẫn không nguôi đợi chờ
Đợi chờ với lòng xác tín: giữa cuộc đổi chác của đồng tiền và nhan sắc
tình yêu vẫn là điều có thật trong những người đang cùng chúng ta bước đi trên đường đời.
(Ký ức nhẹ nhàng)
Chính vì vậy mà trong thơ Lê Văn Ngăn luôn hiện hữu những câu hỏi, những nghi vấn - nghi vấn về cái chết, nghi vấn về lòng tốt, nghi vấn về sự hiện tồn trên cõi thế. Đó chính là cảm thức hiện sinh giúp con người tránh thoát mọi lo âu vô nghĩa trần gian để nhập cuộc vào nhân vị của chính mình và tha nhân một cách thanh thản. Ở đây, một triết lý về nhân cách sống và giá trị sống, chất lượng sống của mỗi cá thể hiện lên:
Các nhà thơ luôn có chữ ký dưới tác phẩm của mình; còn các anh những người cũng tạo ra sự sống, các anh chưa bao giờ ký tên dưới hạt lúa, những bông hoa mới nở.
Các nhà thơ có chân dung và tiểu sử trong các tập sách; còn các anh, những người tạo ra nguồn rung động cho người nghệ sĩ, các anh chỉ lặng lẽ ra đời, lặng lẽ làm việc, và cuối cùng lặng lẽ hóa thân vào đời con cái mình.
Hay các anh cần đến một điều gì cao hơn tên tuổi?
Hay sự lặng lẽ đem niềm vui đến cho những người thân yêu thì đẹp hơn tất cả mọi điều?
(Một vài câu hỏi bình thường)
Nhưng dù gì, sự sống vẫn cao hơn cái chết. Và tình yêu là thước đo mọi rung động chân thật của con tim. Lê Văn Ngăn đã cảm nhận được sự may mắn của chính mình (hay của tha nhân, cũng thế) là tình yêu ấy “không thể tìm thấy ở thương trường”, mà nó giúp nhà thơ “còn giữ nguyên vẻ đẹp thuở ban đầu”. Đó là thơ gan ruột và thơ có ích của Lê Văn Ngăn:
Dọc con đường đời xa tắp ngoài kia
tôi đã nhìn thấy em đi bên cạnh người sống ngược xuôi người chết nằm im lặng
Trên sự sống và sự chết
chúng ta may mắn được đời dành cho một mối tình không thể tìm thấy ở các thương trường.
Tôi sẽ không bao giờ khép lại cánh cửa tâm hồn đã mở
Mai sau, nếu em có dịp trở về lúc tôi đã đi xa
xin đừng quên nhìn vào bên trong ký ức
Nơi ấy,
tôi còn giữ nguyên vẻ đẹp thuở ban đầu.
(Mở ra một cánh cửa)
Trong toàn bộ thi giới Lê Văn Ngăn, tôi chú trọng đến chất triết lý nghiệm sinh rất đời thường, nhưng rất thấm thía. Vì nó đã được chưng lọc qua bình thông thời gian và sự xác tín của nhân sinh, cả ý thức, tiềm thức lẫn vô thức: “Những người lương thiện chúng tôi không còn hy vọng nào khác/ hy vọng cuộc đời mau sáng tươi lên/ để chiếu sáng những mảnh đời riêng bất hạnh” (Đêm khuya và những đêm khuya). Hoặc: “Kẻ nào tin vào con người/ kẻ ấy sẽ được tin” (Nơi tạm trú và quê hương).
Những triết lý mà Lê Văn Ngăn trình hiện thường được thông qua kiểm nghiệm cá nhân của nhà thơ. Ví như nói về sự bắt đầu, nhà thơ lại nghĩ đến sự bắt đầu khác để làm đầy những kinh nghiệm sống, nhất là để nhìn nhận cái ác và sự vô tâm, tàn bạo của đồng loại trước những số phận bé nhỏ và những mảnh đời bất hạnh:
sống không thể không bắt đầu lại
và tôi đang bắt đầu
một nửa đời âm vang bước chân người khuất bóng
một nửa đời kia
hứa hẹn nhiều tiếng kêu không rõ
sống không thể không bắt đầu lại
và tôi đang bắt đầu bằng những kinh nghiệm này
khi cưỡng bức, bạo lực nói bằng roi và bằng man trá
khi sợ hãi, bạo lực thổi kèn đồng
dấu chiếc găng tay tội ác
(Của một người sống sót)
Nối liền hiện tại với quá khứ cũng là cách để đồng hiện và làm sống lại những bài học bi đát mà nhân dân đã trải qua và gánh chịu. Đó còn là cách đi tìm thời gian đã mất theo cách tư duy của Marcel Proust để thức nhận về hiện sinh cuộc đời và cách cứu vãn những bi kịch tinh thần mà con người và có khi cả thời đại phải gánh chịu. Ông mượn bi kịch tinh thần của một nhà thơ thế kỷ trước để nghĩ về những tốt đẹp đang lên ngôi trong xã hội hôm nay:
Nơi cõi vĩnh hằng
mong nỗi cô đơn của ông sẽ được sưởi ấm bằng hơi ấm
đương thời
mong ông giúp quê hương ít gặp những ngày gió bão dọc
đường đời.
(Nghĩ về một nhà thơ ở thế kỷ trước)
Xúc động khi nhà thơ triết nghiệm về tình phụ tử. Quy luật vĩnh hằng của thời gian chỉ có thể cứu vãn và bất tử chính nó. Nhưng đối với con người, nhiều lúc, nó là một nhà tù ghê gớm, làm cho con người trở thành tù nhân, làm mất đi sự thanh xuân và sự hiện hữu chính mình. Đó chính là quy luật bi đát nhất của sự sống:
có con, cha phải chia bớt tự do của đời mình
rời khỏi những con đường khuya, cha bước vào
ngồi thức bên giường bệnh
con người còn bé bỏng này
cần nắm những bàn tay mạnh hơn
để vượt qua một cơn sốt
Nơi sự thật nghiệt ngã ấy, người cha đã phải “chia bớt cho con một phần tự do, thứ quý nhất trên đời/ và chẳng buộc con trả giá/ trong cuộc sống này/ vẫn có những người sống với nhau/ không cần theo cách đổi chác”. Vậy là, mọi biến động cứ diễn ra theo quy luật tuần hoàn. Con người phải đối diện với chúng như những nối tiếp hạnh phúc. Có vậy, con người mới tiếp tục mơ mộng về những điều hằng cửu trên hành trình quay lại tìm dòng suối ký ức cội nguồn để biết những gì sau khi không còn mình, chúng vẫn tồn tại:
cha cũng không mong con ở mãi bên cha
chim non sẽ đến lúc rời tổ, bay vào trời rộng
con người sẽ đến lúc rời mái nhà mẹ cha, bước theo tiếng gọi
của người tình
quả thật, sống gần nhau trong hôm nay
đã thấy trước một ngày không nhìn thấy nhau
Không nhìn thấy nhau, có nghĩa là con sẽ lớn khôn và tuổi già của cha sẽ đổ bóng xuống thời gian và khi ấy, cha tồn tại “không bằng tuổi tên/ mà như tro bụi”, và theo một ý nghĩa tái sinh, khi ấy, cha có thể sẽ “như ngọn cỏ tàn/ đến tiết sẽ trồi lên” (Chế Lan Viên). Cha tồn tại trong hiện sinh đời con, trong từng khát vọng sống của con. Đó chính là luận đề, là triết lý sống theo cách của Lê Văn Ngăn:
ngày ấy, cha sẽ nhủ thầm: niềm vui cũng thuộc phần kẻ nào đã sinh ra người yêu
mong con đừng làm tắt ngấm niềm vui ấy
nghĩa là đừng rẽ vào con đường của kẻ cướp bóc
đừng uống ly bia làm bằng men bất công và mồ hôi của
người lương thiện.
(Một người cha đã nói như thế)
Triết nghiệm về sự sống và cái chết thường trực trong thơ Lê Văn Ngăn bao giờ cũng có tính nhân bản và tích cực như thế. Vì vậy mà trong thơ ông, những câu hỏi về cái chết, sự ám ảnh về cái chết luôn xuất hiện:
quả nhiên, mọi con đường đều dẫn vào mộ địa
điều ấy, trên các bậc thềm, trên nhà ga hay trên bến xe
những người mù đã hát
mọi con đường đều dẫn vào mộ địa
điều ấy, những triết gia chưa đi hết con đường
vội vàng đoán ra những vực thẳm.
Nhưng nó không tiêu cực, trái lại, nó nhắc thức con người những gì đồng nghĩa với sự sống và khát vọng tự do:
những bàn tay nâng đỡ ở cuối đường
nhưng chúng tôi trước khi bước vào mộ địa
yêu nhau là điều tự nhiên
làm việc là điều tự nhiên
bất phục tùng kẻ nào đã tước đoạt tự do của người khác
cũng là điều tự nhiên
tự nhiên như đàn chim én sau thời gian đi tìm mùa xuân
đã hồi hương trên dòng sông lấp lánh
tự nhiên như khu rừng tràm sau hồi suy yếu
đã rầm rộ trả lời.
(Đất của những người bất phục)
Thơ Lê Văn Ngăn là tiếng nói của cuộc đời và là tiếng nói của thân phận con người gần gũi mà ám ảnh như thế.
Đời và thơ Lê Văn Ngăn luôn đồng hành cùng tình yêu và cuộc sống. Nó được chưng cất từ trữ lượng tâm hồn luôn xúc cảm và thương yêu con người và sâu nặng với quê hương của chính nhà thơ. Vì vậy, nó chính là mỹ học thơ, mỹ học sáng tạo có khả năng đánh thức những tin yêu, trách nhiệm và lòng nhân ái trong mỗi người đọc. Ông đã làm sống lại những gì đã mất, đã phôi pha theo thời gian những tinh chất và tinh hoa của chúng như chính ông tâm niệm nêu câu hỏi và tự trả lời: “Có phải văn nghệ sĩ là người đối nghịch với sự tàn phá của thời gian? Là người lưu trữ những di sản của con người? Là người cung cấp những thông tin nhân văn mà không một chiếc máy vi tính nào có thể cung cấp nổi”. Toàn bộ thi giới Lê Văn Ngăn chính là một phần trữ lượng những di sản tinh thần ấy.
H.T.H
(TCSH374/04-2020)
MAI VĂN HOAN (Giới thiệu các tác giả thuộc chi hội nhà văn Việt Nam tại Huế)Ngô Minh là một trong những nhà văn Việt Nam ở Huế được Đài truyền hình Cáp Việt Nam chọn giới thiệu tới 45 phút trong chương trình “Người của công chúng”. Tôi cũng được mời nói đôi lời về anh. Với tôi, Ngô Minh là người làm việc “tới số” và chơi cũng... “tới số”!
PHẠM XUÂN NGUYÊNCùng một kiếp bên trời lận đận (Bạch Cư Dị - Tỳ bà hành)Nhà văn Bùi Ngọc Tấn vừa cho ra mắt tác phẩm Rừng xưa xanh lá (Mười chân dung văn nghệ sĩ) tại Nhà xuất bản Hải Phòng (1/2003).
TÔ VĨNH HÀNhững trang viết sau cùng của một con người luôn luôn là điều thiêng liêng và không bao giờ hết bí ẩn. Vì sao lại dùng từ ấy chứ không phải là chữ kia; đề cập đến cái này chứ không phải là cái khác..? Rất nhiều câu hỏi sẽ đến với người đọc khi trước mắt ta là những ý tưởng hiện hữu sau cùng của một đời người - đặc biệt ở con người vĩ đại như Chủ tịch Hồ Chí Minh. Hồ Chí Minh là cái tên mà mỗi người Việt lúc đọc hay nói, không chỉ diễn đạt một quan niệm gần như vô hạn của nhận thức, mà hơn nhiều thế nữa - là âm sắc tuyệt vời của sự kết tụ những tinh hoa quý giá nhất của trái tim mình.
NGUYỄN TỐNGQuê hương đất nước và con người luôn có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ, tác động qua lại lẫn nhau trong suốt chiều dày của lịch sử dựng nước và giữ nước. Nó tự nhiên chan hoà đến mức như cá bơi quẫy giữa đại dương, chim tung cánh vô tư giữa bầu trời bát ngát. Đến lúc nào đó, khi con người rơi vào cảnh cá chậu chim lồng, tình cảm, ý thức về đất nước thiêng liêng mới trở nên ám ảnh day dứt.
NGUYỄN KHẮC PHÊ (Đọc “Thân Trọng Một – con người huyền thoại” của Nguyễn Quang Hà)Đã từ lâu, tên tuổi anh hùng Thân Trọng Một trở nên thân quen với mọi người, nhất là với quân dân Thừa Thiên Huế; những “sự tích” về ông đã thành truyện “truyền kỳ” trong dân chúng và đã được giới thiệu trên nhiều sách báo. Tuy vậy, với “THÂN TRỌNG MỘT – CON NGƯỜI HUYỀN THOẠI”, lần đầu tiên, chân dung và những chiến công của ông đã được tái hiện một cách đầy đủ và sinh động nhất.
Nhà văn Nguyễn Quang Hà tâm sự với tôi rằng anh có hai món nợ rất lớn mà chắc đến khi nhắm mắt xuôi tay cũng không thể nào trả xong. Hai món nợ mà anh đang gánh trên đôi vai của mình là món nợ đối với nhân dân và món nợ đối với đồng đội. Gần bốn mươi năm cầm bút, anh đã viết 9 tập tiểu thuyết; 7 tập truyện ngắn, ký, truyện ký; 2 tập thơ cùng với hàng trăm bài báo cũng chỉ mong sao trả được hai món nợ ấy.
XUÂN CANGNhờ cuốn hồi ký nhỏ Ngày ấy Trường Sơn (Nxb Hội Nhà văn - Hà Nội - 2000) của Nguyễn Khoa Như Ý- tên khai sinh của Hà Khánh Linh, bạn đọc được biết đây là một nhà văn nữ có khí chất không bình thường. Một người con gái mảnh dẻ, nhưng có chí, mơ mộng, ham hành động, vì nghĩa lớn mà dấn thân vào nơi nguy hiểm.
Sau Vị giáo sư và ẩn sĩ đường, Ba lần đến nước Mỹ, trong năm 2002, GS. Hà Minh Đức tiếp tục ra mắt bạn đọc tác phẩm Tản mạn đầu ô. Vậy là trong khoảng 5 năm, bên cạnh một khối lượng lớn những tác phẩm nghiên cứu, lý luận, phê bình, ông đã sáng tác 3 tập thơ và 3 tập bút ký. Đó là những con số mang nhiều ý nghĩa thể hiện sự "đa năng" của một đời văn tưởng đã yên vị với nhiều danh hiệu cao quý và hơn 30 tập sách nghiên cứu, lý luận, phê bình. Tản mạn đầu ô ra đời được dư luận chú ý, quan tâm. Sau đây là cuộc trao đổi giữa PGS. TS Lý Hoài Thu với GS. Hà Minh Đức xung quanh tập sách này.
HUỲNH HẠ NGUYÊN (Đọc tập thơ "Khúc đêm" của Châu Thu Hà - Nxb Thuận Hoá - 11/2002)...Thơ Châu Thu Hà mang đậm nữ tính. Khi trái tim biết cười, hay khi giàn giụa nước mắt, ta bỗng thấy quý sao những phút sống chân thành với cuộc đời, với mọi người. Châu Thu Hà không để trái tim mình tuột xuống phía bên kia triền dốc, chị cố bước tới và neo lại, để thấy mình được xẻ chia, được yêu chiều, xoa dịu...
LÊ MỸ Ý (L.M.Y): Thưa nhà thơ, là một người có thể tạm gọi là thuộc thế hệ đi trước nhưng lại luôn "gây sốc" bằng những tác phẩm tìm tòi mới, chắc hẳn ông có quan tâm nhiều đến thế hệ thơ trẻ? Có thể có một nhận xét chung về thơ trẻ hiện nay chăng?NHÀ THƠ HOÀNG HƯNG (H.H): Tất nhiên là tôi rất quan tâm. Nhận xét chung của tôi về thơ trẻ bây giờ là đa số vẫn mang tính phong trào. Có thể nói là những người làm thơ trẻ vẫn đi theo một vết mòn của thế hệ trước, chưa thấy rõ những bứt phá, chỉ nổi lên một số tác giả theo cách lẻ tẻ.
Tại sao cô chỉ làm thơ tự do?- Trước hết, bởi tôi thích tự do. Tự do ở đây, được hiểu là: nói, làm, dám mơ ước và tham vọng tất cả những gì mình muốn, không bị tác động và chi phối bởi ai, bởi bất cứ điều gì.
NGUYỄN THỤY KHA Đã là lạ tên một tác phẩm khí nhạc mang tực đề "Eo lưng" của nữ nhạc sĩ Kim Ngọc. Lại thu thú khi đọc tập thơ "Nằm nghiêng" của nữ thi sĩ Phan Huyền Thư. Một thế kỷ giải phóng của Việt Nam thật đáng kính ngạc.Cái cách giải phóng mình, phái yếu trong đó có mình của Phan Huyền Thư là sự độ lượng với cũ kỹ, là mỉa mai sự nửa vời, là quyết liệt lặng lẽ vươn tới cách tân theo một thế của “Nằm nghiêng”.
NGUYỄN TRỌNG TẠOCòn nhớ mùa Huế mưa 1992, Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đến nhà tôi chơi, mang theo bản thảo đánh máy tập thơ đầu tay của một tác giả mới 20 tuổi có tên là Văn Cầm Hải. Một cái tên lạ mà tôi chưa nghe bao giờ. Những bài thơ của anh cũng chưa hề xuất hiện trên mặt báo. Nguyễn Khắc Thạch và Ngô Minh đều nói rằng; "Thơ tay này lạ lắm. Ông xem thử".
NGUYỄN QUANG HÀNgồi đọc NGÀN NĂM SAU mà như đang ngồi nói chuyện tay đôi với Nguyễn Trọng Bính. Giọng thơ anh cũng cứ chân chất, yêu quê hương và say đời như chính con người anh. Từ thời chiến tranh, chúng tôi đã ở trong rừng với nhau. Cứ ngồi với nhau là bộc bạch hết. Một lá thư riêng, một rung động mới, chúng tôi cũng chia sẻ với nhau.
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi
NAM NGỌC (Về tập truyện ngắn mới nhất của nhà văn Võ Thị Xuân Hà do Công ty Truyền thông Hà Thế liên kết NXB Phụ nữ xuất bản và phát hành quý I năm 2009)Tập truyện gồm 14 truyện ngắn, với những mô típ khác nhau nhưng cùng chung gam màu thấm đẫm chất liệu hiện thực. Tất cả đã tạo nên một chỉnh thể thống nhất mà ở đó các nhân vật dù xấu dù tốt cũng đều hướng tới cái đẹp, cái nhân bản của con người. Cách viết truyện lạ cùng với những chi tiết, tình tiết được lắp ghép một cách khéo léo, Võ Thị Xuân Hà đã một lần nữa gây ngạc nhiên cho người đọc bằng bút pháp ẩn không gian đa chiều của mình.
BÍCH THUHơn một thập niên trước đây, với hai truyện ngắn Hồi ức của một binh nhì và Vết thương lòng, Nguyễn Thế Tường đã đoạt giải cao trong cuộc thi truyện ngắn do Tạp chí Văn nghệ quân đội tổ chức năm 1992 - 1994. Tôi còn nhớ một trong số các nhà phê bình đã thành danh của nhà số 4 Lý Nam Đế không kìm được cảm xúc của mình với chùm truyện dự thi của Nguyễn Thế Tường lúc ấy đã thốt lên: “Tôi thích truyện ngắn Nguyễn Thế Tường”. Từ đó đến nay, Nguyễn Thế Tường vẫn miệt mài viết và lặng lẽ ra sách. Người đàn bà không hoá đá là lần ra mắt thứ năm của anh.
HOÀNG VŨ THUẬT (Đọc “Trăng đợi trước thềm”, thơ Hải Bằng, NXB Thuận Hoá - 1987)Đổi mới là trách nhiệm vừa là bổn phận đang diễn ra sôi động trong đời sống văn học hôm nay. Nhưng ranh giới giữa cũ và mới không dễ dàng phân định khi đánh giá một tác phẩm văn chương nghệ thuật.
ĐINH NAM KHƯƠNG (Nhân đọc “ru em ru tôi” Thơ Trương Vĩnh Tuấn NXB: Hội nhà văn - 2003)Có một nhà thơ nổi danh thi sĩ, làm “quan” khá to ở báo văn nghệ. Nhưng chẳng bao giờ thấy ông vỗ ngực, ngạo mạn nói lời: “ta là quan đây” mà ông luôn dân giã tự gọi mình là hắn, xưng hô với bạn bè là mày tao: “...Hình như hắn là nhà quê Hình như hắn từ quê ra...” (Gốc)
NGÔ MINHKhông thể đếm là tập thơ đầu tay của cây bút nữ Nguyễn Thị Thái người Huế, sống ở thành phố Buôn Ma Thuột vừa được NXB Thuận Hóa ấn hành. Tôi đã đọc một mạch hết tập thơ với tâm trạng phấn khích. Tập thơ có nhiều bài thơ hay, có nhiều câu thơ và thi ảnh lạ làm phấn chấn người đọc.