Họ tên: Dương Thị Khánh
Năm sinh: 1944
Quê quán: Thừa Thiên Huế
Hiện ở: 71 đường 3 tháng 2, thành phố Đà Lạt
Cũng đành
Bao giờ em hết làm thơ
Để mà đừng khóc duyên hờ chị ơi
Mấy lần… bài cuối đây rồi
Mà sao chưa cuối những lời thơ đau
Vẫn từng khuya vẫn nghẹn ngào
Xót thương nằm đếm từng sao để buồn
Bao giờ cho hết nhớ thương
Để đừng nước mắt trong hồn quanh năm
Em về… gặp chị mấy lần
Mấy lần… định sẽ phân trần lại thôi
Đời em… rứa đó chị ơi
Không bao giờ nhận những lời ấm êm
Gạt lừa dẫn tới cho em
Thôi thì… thơ viết chị xem đủ rồi
Phải chi em đẹp như người
Thơ tâm sự chẳng mang lời xót thương
Chị ơi cay đắng trong hồn
Trọn đời em chị vẫn buồn… hay sao?
Bao giờ mới hết thương đau
Để em đừng khóc nhạt màu mắt xanh
Nhiều lần chợt nghĩ: “Cũng đành
Mình vô phước quá nên thành dở dang”.
Cô gái Huế có bút hiệu rất là định mệnh - vì vậy mà cả đời chỉ khóc, nước mắt nhiều hơn nụ cười.
Lệ Khánh yêu rất sớm và đến với thơ sớm cũng vì yêu. Thơ đã nói hộ giùm cô một tình yêu không trọn vẹn, không pháo đỏ rượu hồng, không xe cưới kiêu sa.
Dạo đó, những năm thuộc thập niên 60 của thế kỷ XX thi đàn miền Nam Việt Nam xuất hiện một gương mặt nữ với giọng điệu thơ da diết sầu tình qua các tập thơ Em là gái trời bắt xấu, 5 tập thơ liên tiếp cùng một nhan đề như thế. Một số người đọc đón với niềm cảm thông… xã hội miền Nam Việt Nam lúc bấy giờ đang trong cảnh chiến tranh loạn lạc, sự chia lìa của đôi lứa yêu thương là nỗi đau chung của cả thế hệ con gái, con trai - tất cả đều chung cảnh ngộ chỉ khác cái là âm thầm chịu đựng hoặc to tiếng giải bày - Lệ Khánh là đại diện cho sự giải bày qua ngôn ngữ của thơ ca.
Toàn bộ tác phẩm của Lệ Khánh là một chuỗi diễn ca, trường ca khóc cho một tình yêu, tình yêu ngang trái bẽ bàng, tình yêu đợi chờ vô vọng, tình yêu đơn phương một cõi lẻ loi, bằng một giọng điệu thương thân trách phận qua 148 bài thơ đủ thể loại từ 8 chữ, 7 chữ, 5 chữ, và lục bát, tôi hụt hơi chạy theo chuỗi nam ai bất tận ấy qua 3 tập Em là gái trời bắt xấu và Vòng tay nào cho em để tìm ý, tứ một ngôn ngữ nào khác ngỏ hầu bớt đơn điệu trong phần giới thiệu và cảm nhận, nhưng đành chào thua với sự chung thủy của một chủ đề sáng tác của nàng thơ Lệ Khánh. Yêu + chờ đợi + nhớ nhung + tuyệt vọng = đau khổ… phải chăng đó là một công thức? Bạn đọc có thể nêu thắc mắc “thơ mà cũng lập công thức như toán học hay sao?” Xin thưa, soạn giả đùa một tí cho bớt sầu thương theo những vần thơ ai oán bi phẫn của nàng thơ đó thôi.
Nguyên quán của nàng thơ Lệ Khánh là Thừa Thiên Huế nhưng để biết cụ thể là chôn nhau cắt rốn chỗ mô trên vùng đất ấy thì Lệ Khánh trả lời tỉnh rụi: “Em không nhớ, chỉ nhớ là có học trường Janne d’Arc mấy năm, rồi Mạ đưa em đi khỏi Huế.” Trời ơi! Câu trả lời hồn nhiên của Lệ Khánh làm tôi chợt nhớ hai câu thơ của Xuân Diệu: “Tôi khờ khạo lắm, ngu ngơ quá/ Chỉ biết yêu thôi, chẳng biết gì”.
Phải chăng khi chạm phải bùa yêu, chạm phải độc tình hoa là Lệ Khánh quên hết mọi việc, mọi sự trên đời mà tâm tưởng chỉ dồn hết vào một chữ yêu, bao nhiêu thời gian vàng ngọc nàng sẵn sàng dâng tặng cho tình yêu, cho thơ yêu; vào những năm thuộc thập niên 60 ở miền Nam, mảng thơ viết về tình ái của tác giả là một bước đột phá trong làng thơ nữ. Nói như vậy không có nghĩa là các nhà thơ nữ dạo đó không làm thơ tình nhưng làm kiểu như Lệ Khánh thì dễ có mấy ai (?). Vì thế mà hiện tượng thơ tình Lệ Khánh được giới mày râu là những vị đang “giã nhà đeo bức chiến bào” vui mừng đón nhận; xúc động trong niềm hạnh phúc bởi như thấy bóng dáng mình trong từng câu từng chữ của nhà thơ, không ít người đặt mình vào nhân vật, vào nguyên mẫu, vào đối tượng trong thơ Lệ Khánh, đã có những bài thơ đáp họa, những hồi âm tự nhận mình là người trong cuộc từ “nơi gió cát” gửi về làm tác giả liên tưởng đến ẩn số T.T.Kh., Nguyễn Bính, Thâm Tâm… Nói như vậy chúng tôi không có ý đánh đồng T.T.Kh. với Lệ Khánh, bởi hai sự kiện, hai hoàn cảnh lịch sử xã hội hoàn toàn khác nhau. Nhân vật của T.T.Kh. là nghệ sĩ, nhân vật của Lệ Khánh là chiến sĩ.
T.T.Kh có “Bài thơ thứ nhất”, “Hai sắc hoa ti gôn”, “Bài thơ đan áo”, “Bài thơ cuối cùng” và mai danh ẩn tích đã làm náo động cả thi đàn Việt Nam từ 1937 đến giờ vẫn còn âm ỉ. Còn Lệ Khánh có tên có tuổi, tài sản văn chương là 7 tác phẩm chính, bên tám lạng bên cả ký, bên hiện hữu, bên mơ hồ bóng chim tăm cá, chỉ giống nhau ở những chữ, những câu làm nao lòng người đọc. Thế thôi!
Sóng gió nào rồi cũng qua đi và trở lại bình yên, biển chỉ còn lăn tăn sóng gợn, người con gái trời bắt xấu thuở thanh xuân giờ đã sắp ở ngưỡng thất tuần chi tuế đang sống bình yên với con cháu ở thành phố ngàn hoa, người phụ nữ làm thơ tự đánh giá bản thân mình là cô gái trời bắt xấu chỉ là cách nói hờn dỗi với tình quân, với cuộc đời, hay nói theo cách nói của người Nam bộ là “Nói dzậy mà không phải dzậy”.
Ninh Giang Thu Cúc
(SDB10/09-13)
Những năm đầu sau ngày miền giải phóng, có mấy lần nhà thơ Xuân Diệu vào các tỉnh Nam Trung Bộ và dừng ở Nha Trang ít ngày. Đến đâu Xuân Diệu cũng nói chuyện thơ, được người nghe rất hâm mộ, đặc biệt là giới trẻ.
Có nhiều khi trong đời, “trôi theo cõi lòng cùng lang thang” như Thiền sư Saigyo (Nhật Bản), bất chợt thèm một ánh lửa, một vầng trăng. Soi qua hương đêm, soi qua dòng văn, soi qua từng địa chỉ... những ánh lửa nhỏ nhoi sẽ tổng hợp và trình diện hết thảy những vô biên của thế cuộc, lòng người. “Trong mắt tôi” của Hoàng Phủ Ngọc Tường đã là ánh lửa ấy, địa chỉ ấy.
1. Kawabata Yasunari (1899 -1972) là một trong những nhà văn làm nên diện mạo của văn học hiện đại Nhật Bản. Ông được trao tặng giải Nobel năm 1968 (ba tác phẩm của Kawabata được giới thiệu với Viện Hoàng gia Thụy Điển để xét tặng giải thưởng là Xứ Tuyết, Ngàn cách hạc và Cố đô).
(Thơ Đỗ Quý Bông - Nxb Văn học, 2000)Đỗ Quý Bông chinh phục bạn hữu bằng hai câu lục bát này:Đêm ngâu lành lạnh sang canhTrở mình nghe bưởi động cành gạt mưa.
Thạch Quỳ là nhà thơ rất nhạy bén trong việc nắm bắt thông tin và chóng vánh tìm ra ngay bản chất đối tượng. Anh làm thơ hoàn toàn bằng mẫn cảm thiên phú. Thơ Thạch Quỳ là thứ thơ có phần nhỉnh hơn mọi lý thuyết về thơ.
Kỷ niệm 50 năm ngày mất nhà văn Nam Cao (30.11.1951-30.11.2001)
Có một con người đang ở vào cái tuổi dường như muốn giũ sạch nợ nần vay trả, trả vay, dường như chẳng bận lòng chút nào bởi những lợi danh ồn ào phiền muộn. Đó là nói theo cái nghĩa nhận dạng thông thường, tưởng như thế, nơi một con người đã qua "bát thập". Nhưng với nhà thơ Trinh Đường, nhìn như thế e tiêu cực, e sẽ làm ông giận dỗi: "Ta có sá gì đi với ở".
Nhà thơ Trinh Đường đã từ trần hồi 15g10’ ngày 28.9.2001 tại Hà Nội, thọ 85 tuổi. Lễ an táng nhà thơ đã được tổ chức trọng thể tại quê nhà xã Đại Lộc huyện Duy Xuyên tỉnh Quảng , theo nguyện vọng của nhà thơ trước khi nhắm mắt.
Phan Ngọc, như tôi biết, là người xuất thân trong gia đình Nho giáo, đã từng làm nghề dạy học, từ năm 1958 chuyển sang dịch sách, là người giỏi nhiều ngoại ngữ. Hiện nay, ông đang là chuyên viên cao cấp của Viện Đông Nam Á (Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia).
Có những con người mà ta chỉ gặp một đôi lần trong đời để rồi mãi nhớ, mãi ám ảnh về họ. Với tôi, nhà văn Trần Dần là người như vậy.
Trước tình hình số tập thơ được xuất bản với tốc độ chóng mặt, người ta bỗng nhiên cảm thấy e ngại mỗi khi cầm một tập thơ trên tay. E ngại, không phải vì người ta sợ nhọc sức; mà e ngại vì người ta nghĩ rằng sẽ phải đọc một tập thơ dở! Cảm giác ấy xem ra thật là bất công, nhưng thật tình nó quả là như vậy.
Những năm từ 1950 khi học ở trường trung học Khải Định (Quốc học Huế), tôi đã đọc một số bài thơ của Dao Ca đăng trên một số tờ báo như Đời mới, Nhân loại, Mới, Thẩm mỹ...
Tôi đến tìm ông vào một buổi sáng đầu đông, trong căn nhà ngập tràn bóng tre và bóng lá. Nếu không quen ắt hẳn tôi đã khá ngỡ ngàng bởi giữa phồn hoa đô hội lại có một khu vườn xanh tươi đến vậy!.
LTS: Rạng sáng ngày 11-7-2001, Toà soạn nhận được tin anh Đoàn Thương Hải - hội viên Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế, sau một cơn đột quỵ, mặc dù đã được gia đình, bạn bè và các thầy thuốc Bệnh viên Trung ương Huế tận tình cứu chữa nhưng không qua khỏi, đã rời bỏ chúng ta an nhiên về bên kia thế giới!Tạp chí Sông Hương - Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế xin có lời chia buồn sâu sắc tới gia quyến nhà văn.Sông Hương số này xin giới thiệu hai bài thơ cuối cùng của anh được rút ra từ tập thơ chép tay lưu giữ tại gia đình.TCSH
Thơ Đặng Huy Giang xuất hiện trên thi đàn đã nhiều năm nay; song thật sự gây ấn tượng với bạn đọc phải kể đến một vài chùm thơ mà báo Văn nghệ đăng tải trên trang thơ dự thi 1998 - 2000; đặc biệt sau đó anh cho ra mắt bạn đọc hai tập thơ một lúc: Trên mặt đất và Qua cửa.
Có lẽ với phần lớn không gian thơ Phan Trung Thành, làm thơ là trò chuyện ân tình với những bóng dáng cũ, thuộc về quê nhà.
Trong bài viết điểm lại văn học năm 2000, sự kiện và bình luận, tôi có nêu hai tác giả trẻ, cùng là nữ, cùng có tác phẩm đáng chú ý trong năm, một người tập truyện, một người tập thơ. Người thơ là Vi Thùy Linh.
(Đọc “Gặp lại tuổi hai mươi”(*) của Kiều Anh Hương)Ngay bài thơ in đầu tập “Vùng trời thánh thiện” có hai câu đã làm tôi giật mình, làm tôi choáng ngợp: “Những lo toan năm tháng đời thường Như tấm áo chật choàng lên khát vọng”
đầu tháng 4 năm ngoái, sau khi tuần báo “Văn nghệ” của Hội Nhà văn Việt Nam đăng truyện ngắn dự thi “Quả đồng chùy tóc bện” của Trần Hạ Tháp - một bút danh “mới toanh” trên văn đàn, tôi ghé tòa soạn “Sông Hương” hỏi nhà văn Hà Khánh Linh:- Chị biết Trần Hạ Tháp là ai không? Tác giả chắc là người Huế...
Trương Văn Hiến có sở học phi thường và mang trong người một hoài bão lớn lao: an bang tế thế bình thiên hạ.