Lê Khánh Mai, khai mở những con đường

15:46 01/09/2008
HOÀNG QUẢNG UYÊNTôi yêu mến và quý trọng những câu thơ như là "không thơ" của chị:Câu thơ nước chảy bèo trôi/ Vẫn nghiêng về phía phận đời khổ đau. (Hương cỏ)

Chị luôn đứng về "phe khổ đau" và từ tâm thế ấy mà gửi thân phận con người vào thân phận hoa cỏ, mây gió, thân phận Con Thuyền Nhỏ giữa ngàn khơi sóng gió: Con thuyền nhỏ/ Tả tơi/ Về gối bãi... Run rẩy/ Úp vào ngực cát/ Khóc một niềm vô vọng/Ngàn khơi.
Chị lý giải, chiêm nghiệm một điều gì từ những thân phận mỏng manh? Không! đơn giản đó là sự cảm nhận, cảm thông phận đời, vì vậy đọc thơ chị không tìm thấy câu trả lời, sau nhiều câu hỏi đặt ra mà như đã được trả lời, đó chính là bản lĩnh thơ Lê Khánh Mai – một bản lĩnh tạo ra những tứ thơ, câu thơ bình dị, có phần "đơn sơ", đọc cứ như không mà ám ảnh:
Ta đơn sơ như cỏ thôi/Phải đâu dấu hỏi mà đời phân vân/Có ta trời thản nhiên xanh/Không ta mây trắng yên lành vẫn trôi.
Phải thấu lẽ đời lắm thì mới có thể "dửng dưng" một cách thanh thản như vậy. Có được lối nghĩ, cách nhìn ấy là bởi sau bao nhiêu lần: "Trượt ngã trên những con đường đầy sỏi, ai đó rải ra cản lối. Những viên sỏi vo tròn tầm thường giả dối" nhà thơ vẫn vươn dậy mạnh bước trên đường thơ hái những "vì sao tận cuối trời xa lắc":
Chết vùi đi, hay là thắp lửa?/ Đơn giản vô cùng sao cứ mãi phân vân. (KHÁT VỌNG)
Chị không trả lời, nhưng rõ ràng là chị thắp lửa – thắp ngọn lửa từ trái tim để mà khai mở những con đường mới cho thơ. Mải miết, dịu êm mà bạo liệt, chị chưa bao giờ bằng lòng với những điều người khác tìm ra, định ra mà phải tự tìm ra con đường của chính mình. Có một cái gì đó tương hợp với điều mà Mác Xen Pruts đã từng triết luận: "Đi tìm cái mới không phải là tìm những miền đất mới mà là nhìn bằng Con mắt Mới". Phải, chính vì chị nhìn bằng Con Mắt Mới mà khám phá ra nhiều điều mới mẻ từ những sự vật, những chuyện "cũ như cổ tích".
Nhập vào ân oán của chị em nhà Tấm, Cám, chị đau đớn kêu lên:
Mà sao tựa bóng ngai vàng/ Nơi tột đỉnh cao sang/ Chị giết em mình thảm khốc.
Và chị muốn (hay đời muốn):
Chị cứ là cô Tấm trắng trong/ Của đồng quê bùn đất/ Dẫu rằng cổ tích sẽ buồn hơn (CỔ TÍCH BUỒN)
Chị không phải là người "nói" đầu tiên điều này mà từ sự cảm nhận đó đã dẫn đến cái nhìn mới trong thơ. Thế là đã quý rồi.
Và:
Nếu quả thật có một thung lũng tình yêu/ Loài người sẽ tìm về nôn nả/ Đông hơn cả cuộc hành trình đến La Mã/ Đà Lạt bỗng thành cái rốn địa cầu.
Vẻ ngờ vực hỏi cho vui vậy thôi, chứ chị tin mà mong những điều huyền diệu ở thung lũng tình yêu. (Thực ra là tin Tình Yêu, Khát Vọng Tình Yêu).
Tôi vẫn đứng đây trên miệng vực/ Tưởng tượng đáy sâu kia là chốn địa đàng/ Có vòm lá xanh ẩn hiện mơ màng/ Có chùm quả ngọt lành cám dỗ/ Và A Đam đợi tôi ở đó/ Để cùng tan đi trong cái rốn địa cầu
. (THUNG LŨNG TÌNH YÊU)
Thêm một cái nhìn mới về nhân cách sống qua Điều cảm nhận về thông"... Chẳng như người quân tử, xin đổi kiếp làm thông, tôi làm người học thông cách sống".
Cũng bởi cảm nhận từ phía khổ đau mà chị đã gắng gỏi "minh oan" cho bùn:
Mùi bùn có hôi tanh đâu/Mà câu ca nỡ làm đau lòng bùn.
Lê Khánh Mai hay ở mảng thơ viết về người thân, bạn bè vì gần mà thật, hoặc giả đó chính là chị: Hình ảnh về người cha "rụng xuống lá xanh"; về đời mẹ "chiếc thuyền giấy vật vã, long đong", về đứa con, "chàng trai của mẹ"... Những hình ảnh đó luôn trở đi, trở lại, mỗi lần mỗi vẻ, mới và chưa bao giờ cạn vơi. Thơ dâng hồn Cha, viết cuối năm 1997, là những ký ức trỗi dậy:
Tuổi thơ con côi cút/Thiếu vắng một tình thương/. ../ Đường ngã ba ngã bảy/Biết nương theo lối nào.
Hai năm sau, cũng trở về từ thẳm sâu ký ức, nhưng là tiếng khóc: Cha ơi! thật gần, thật sâu: "Đời con thiếu cha như cánh chim lạc bước, bay ngả nào cũng gặp mây che".
Trước đây (Thơ dâng hồn cha) thì:
Sướng khổ đã cam phận/Mong sao lòng thảnh thơi/Biết ơn cha vô hạn/Đã sinh con làm người.
Còn sau này (Cha ơi! ) – Cao hơn, thần thái hơn: "Nhưng con trong một niềm tin bất tuyệt, con sẽ hái những vì sao xa lắc, bởi có cha nâng cánh cho con".
Tôi nói hơi dài ở đoạn này, bởi vì thoạt nhìn có những bài thơ dường như có sự trùng hợp về ý, về tứ, nhưng đọc kỹ thì thấy đó như là những đường tròn đồng tâm, vòng sau rộng hơn, ôm trùm hơn vòng trước – do đó không có cảm giác nhàm chán, cũ mòn.
Lê Khánh Mai là người chuyên tâm nghiên cứu ngôn ngữ – chuyên tâm đến độ say mê! Điều đó thể hiện rõ trong thơ chị và tôi có thể nói rằng: Ngôn ngữ trong thơ chị là một thứ ngôn ngữ chính xác, sáng tạo làm nên thần thái mỗi câu thơ, bài thơ – xét trong địa phận hẹp đó chị cũng đã có sự khai mở riêng của mình. Tôi nhớ một nhà viết văn xuôi nước ngoài đã từng khuyên những người viết trẻ có phần cực đoan rằng: "Các bạn hãy tìm giết những tính từ trong các trang viết của mình, như giết chết những con rệp!". Ta thử xem những tính từ trong thơ Lê Khánh Mai là những sinh vật gì (cả những tính từ mang dáng vẻ danh từ, động từ... dẫn trong tập Cổ tích xanh – Nhà xuất bản Thanh Niên – 2000).
Có ban mai tôi như người ốm dậy/Ngập lụt nỗi buồn, gầy guộc niềm vui. (CHIẾC LÁ).
Rồi: Cơm mới thơm nức nở ngày mùa/Tình yêu tôi ngát hương cả mật, cỏ gà. (TÔI SINH RA TỪ BÙN)
Và: Nếu quả thật có một thung lũng tình yêu/ Loài người sẽ tìm về nôn nả. (THUNG LŨNG TÌNH YÊU)
Và nữa: Bến cá mỗi ban mai mở hội/ Tấp nập thuyền ghe, nhễ nhại những nụ cười (NHA TRANG CỦA TÔI)
V.V...
Dẫn ra vài ví dụ trong rất nhiều ví dụ để thấy rằng: Những tính từ trong thơ Lê Khánh Mai là những sinh vật, sinh linh đáng yêu, có tuổi thọ cao. Chị luôn sáng tạo một cách tự tin, chọn từ chuẩn xác.
Nhân đây, tôi cũng muốn nói rằng, vốn trí thức về các nền văn hóa, về văn học – nghệ thuật và cả vốn sống, lẽ đời... làm đầy đặn cho tác phẩm nghệ thuật, nhưng tham quá sẽ trở thành lê thê, lý sự chỉ để mà. .. lý sự! Điều đó vẫn gặp đâu đây trong thơ Lê Khánh Mai (dù rất ít), càng củng cố thêm nhận định có tính quy luật trong nghiên cứu thơ: "Điểm yếu của mỗi nhà thơ lộ ra từ chính điểm mạnh của nhà thơ ấy". Lê Khánh Mai cũng không phải là ngoại lệ.

Tôi là người may mắn có trong tay cả 4 tập thơ của Lê Khánh Mai (Trái chín – 1990; Nước mắt chảy về đâu - 1998; Cổ tích xanh – 2000; Cát mặn – 2001). Mỗi tập một vẻ, trong số đó tôi thích Cổ tích xanh hơn cả vì thơ vẫn giữ được nét trong trẻo, nguyên sơ thời trẻ vừa đằm sâu lẽ đời nhiều trải nghiêm. Tôi thật sự thích những bài Dị bản, Cổ tích buồn, Con thuyền nhỏ, Đơn sơ, Cha ơi... và nhiều bài khác nữa. Dường như ở tập thơ nào Lê Khánh Mai cũng có lời tâm sự với thơ ca, tâm sự với bạn đọc về những chặng đường thơ, những "cuộc hành trình đơn độc/La Mã vời vợi xa", những được mất giữa đời và thơ "khi tôi rơi xuống hố thẳm khổ đau/thơ vực tôi đứng dậy". Có phải vì thế mà chị viết:
Mỗi câu thơ mang bóng dáng nụ cười/ Hay nước mắt buồn đau số phận/Tôi đã đổi bằng bao cay đắng/Có khi như vắt kiệt chính mình.
Nên bạn đọc đón nhận thơ chị với niềm tin yêu:
Bạn đọc thơ trôi chảy, dễ dàng/Nghĩa là tôi đã trải nhiều khổ sở/Thơ đâu phải là trò chơi con chữ/Trả giá một đời chỉ gặt hái đôi câu (TÂM SỰ THƠ CA)
Vâng! Một đời làm thơ chỉ gặt hái được đôi câu đã là hạnh phúc lắm rồi – Với những người yêu thơ, có thể Lê Khánh Mai làm được nhiều hơn thế, bởi lẽ chị luôn luôn đặt ra cho mình một lẽ sống, một trách nhiệm với thơ ca:
Hãy đi tới như một người can đảm/ Bởi sống là khai phá những con đường (CHÀNG TRAI CỦA MẸ).
Lê Khánh Mai đã sống, đã "vắt kiệt sức mình" cho việc khai mở những con đường mới, để tìm một lối đi cho riêng mình dù là rất nhỏ. Với khát vọng và tình yêu thơ, chị rắn rỏi mạnh bước trên đường với niềm tin bất tuyệt – niềm tin có bóng mình, cha, mẹ, tình yêu của chồng con, tình thân ái của bạn bè và lòng ngưỡng mộ của bạn đọc nâng cánh giữa ngàn xanh.
Những ngày rét đậm cuối năm 2001
H.Q.Y

(nguồn: TCSH số 162 - 08 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN KHẮC PHÊTừ lâu, ở Huế, nhiều người đã biết tiếng ba công chúa, ba nữ sĩ (Tam Khanh) con vua Minh Mạng, em gái nhà thơ nổi tiếng Tùng Thiện Vương Miên Thẩm, trong đó MAI AM là người được nhắc đến nhiều nhất. Mai Am nổi tiếng trước hết vì tài thơ và cùng vì cuộc đời riêng không được may mắn của bà, tuy bà là người sống thọ nhất trong “Tam Khanh”.

  • LÊ DỤC TÚCùng với nghệ thuật tiếp cận và phản ánh hiện thực, nghệ thuật miêu tả và khắc họa chân dung nhân vật, nghệ thuật châm biếm và sử dụng ngôn ngữ cũng là một trong những nét nghệ thuật đặc sắc ta thường gặp trong các phóng sự Việt Nam 1932 - 1945.

  • NGUYỄN VĂN DÂNTrong thế kỷ XX vừa qua, thế giới, đặc biệt là thế giới phương Tây, đã sản sinh ra biết bao phương pháp phục vụ cho nghiên cứu văn học, trong đó phương pháp cấu trúc là một trong những phương pháp được quan tâm nhiều nhất.

  • AN KHÁNHHai mươi tám năm kể từ ngày chấm dứt chiến tranh ở Việt Nam, đủ để một thế hệ trưởng thành, một dòng thơ định vị. Tháng 3 vừa qua, Hội Văn nghệ Hà Nội và nhóm nhà thơ - nhà văn - cựu binh Mỹ có cuộc giao lưu thú vị, nhằm tìm ra tiếng nói "tương đồng", sự thân ái giữa các thế hệ Mỹ - Việt thông qua những thông điệp của văn chương.

  • TRẦN ĐÌNH SỬ Bạn đọc Việt Nam vốn không xa lạ với phê bình phân tâm học hơn nửa thế kỷ nay, bởi nó đã bắt đầu được giới thiệu vào nước ta từ những năm ba mươi, bốn mươi thế kỷ trước. Nhưng đáng tiếc nó đã bị kỳ thị rất nặng nề từ nhiều phía. Giống như nhân loại có thời phản ứng với Darwin vì không chấp nhận lý thuyết xem con người là một loài cao quý lại có thể tiến hóa từ một loài tầm thường như loài khỉ, người ta cũng không thể chấp nhận lý thuyết phân tâm học xem con người - một sinh vật có lý trí cao quý lại có thể bị sai khiến bởi bản năng tầm thường như các loài vật hạ đẳng!

  • PHẠM ĐÌNH ÂN(Nhân kỷ niệm lần thứ 20 ngày mất của Thế Lữ 3-6-1989 – 3-6-2009)Nói đến Thế Lữ, trước tiên là nói đến một nhà thơ tài danh, người góp phần lớn mở đầu phong trào Thơ Mới (1932-1945), cũng là nhà thơ tiêu biểu nhất của Thơ Mới buổi đầu. Ông còn là cây bút văn xuôi nghệ thuật tài hoa, là nhà báo, dịch giả và nổi bật là nhà hoạt động sân khấu xuất sắc, cụ thể là đưa nghệ thuật biểu diễn kịch nói nước nhà trở thành chuyên nghiệp theo hướng hiện đại hóa.

  • THÁI DOÃN HIỂUPhàm trần chưa rõ vàng thauChân tâm chẳng biết ở đâu mà tìm.                                VẠN HẠNH Thiền sư

  • HỒ THẾ HÀ  Thi ca là một loại hình nghệ thuật ngôn từ đặc biệt. Nó là điển hình của cảm xúc và tâm trạng được chứa đựng bởi một hình thức - “hình thức mang tính quan niệm” cũng rất đặc biệt. Sự “quái đản” trong sử dụng ngôn từ; sự chuyển nghĩa, tạo sinh nghĩa trong việc sử dụng các biện pháp tu từ; sự trừu tượng hoá, khái quát hoá các trạng thái tình cảm, hiện thực và khát vọng sống của con người; sự hữu hình hoá hoặc vô hình hoá các cảm xúc, đối tượng; sự âm thanh hoá theo quy luật của khoa phát âm thực nghiệm học (phonétique  expérimentale)...đã làm cho thi ca có sức quyến rũ bội phần (multiple) so với các thể loại nghệ thuật ngôn từ khác.

  • LÊ XUÂN LÍTHỏi: Mã Giám Sinh sau khi mua được Kiều, Mã phải đưa Kiều đi ròng rã một tháng tròn mới đến Lâm Tri, nơi Tú Bà đang chờ đợi. Trên đường, Mã đâm thèm muốn chuyện “nước trước bẻ hoa”. Hắn nghĩ ra đủ mưu mẹo, lí lẽ và hắn đâm liều, Nguyễn Du viết:              Đào tiên đã bén tay phàm              Thì vin cành quít, cho cam sự đờiĐào tiên ở đây là quả cây đào. Sao câu dưới lại vin cành quít? Nguyễn Du có lẩm cẩm không?

  • CHU ĐÌNH KIÊN1. Có những tác phẩm người đọc phải thực sự “vật lộn” trên từng trang giấy, mới có thể hiểu được nhà văn muốn nói điều gì. Đó là hiện tượng “Những kẻ thiện tâm” (Les Bienveillantes) của Jonathan Littell. Một “cas” được xem là quá khó đọc. Tác phẩm đã đạt hai giải thưởng danh giá của nước Pháp là: giải Goncourt và giải thưởng của Viện hàn lâm Pháp.

  • PHONG LÊSinh năm 1893, Ngô Tất Tố rõ ràng là bậc tiền bối của số rất lớn, nếu không nói là tất cả những người làm nên diện mạo hiện đại của văn học Việt Nam thời 1932-1945. Tất cả - gồm những gương mặt tiêu biểu trong phong trào Thơ mới, Tự Lực văn đoàn và trào lưu hiện thực đều ra đời sau ông từ 10 đến 20 năm, thậm chí ngót 30 năm.

  • HẢI TRUNGHiện tượng ngôn ngữ lai tạp hay gọi nôm na là tiếng bồi, tiếng lơ lớ (Pidgins và Creoles) được ngành ngôn ngữ học đề cập đến với những đặc trưng gắn liền với xã hội. Nguồn gốc ra đời của loại hình ngôn ngữ này có nhiều nét khác biệt so với ngôn ngữ nói chung. Đây không chỉ là một hiện tượng cá thể của một cộng đồng ngôn ngữ nào, mà nó có thể phát sinh gắn liền với những diễn biến, những thay đổi, sự phát triển của lịch sử, xã hội của nhiều dân tộc, nhiều quốc gia khác nhau.

  • BÙI NGỌC TẤN... Đã bao nhiêu cuộc hội thảo, bao nhiêu cuộc tổng kết, bao nhiêu cuộc thi cùng với bao nhiêu giải thưởng, văn chương của chúng ta, đặc biệt là tiểu thuyết vẫn chẳng tiến lên. Rất nhiều tiền của bỏ ra, rất nhiều trí tuệ công sức đã được đầu tư để rồi không đạt được điều mong muốn. Không có được những sáng tác hay, những tác phẩm chịu được thử thách của thời gian. Sự thất thu này đều đã được tiêu liệu.

  • NGUYỄN HUỆ CHICao Bá Quát là một tài thơ trác việt ở nửa đầu thế kỷ XIX. Thơ ông có những cách tân nghệ thuật táo bạo, không còn là loại thơ “kỷ sự” của thế kỷ XVIII mà đã chuyển sang một giọng điệu mới, kết hợp tự sự với độc thoại, cho nên lời thơ hàm súc, đa nghĩa, và mạch thơ hướng tới những đề tài có ý nghĩa xã hội sâu rộng.

  • NGUYỄN TRƯƠNG ĐÀNĐã nhiều sử liệu viết về cuộc xử án vua Duy Tân và các lãnh tụ khởi xướng cuộc khởi nghĩa bất thành tháng 5-1916, mà trong đó hai chí sĩ Thái Phiên - Trần Cao Vân là hai vị đứng đầu. Tất cả các sử liệu đều cho rằng, việc hành hình đối với Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Đề, Nguyễn Quang Siêu diễn ra vào sáng ngày 17-5-1916. Ngay cả trong họ tộc hai nhà chí sĩ, việc ghi nhớ để cúng kỵ, hoặc tổ chức kỷ niệm cũng được tính theo ngày như thế.

  • PHONG LÊBây giờ, sau 60 năm - với bao là biến động, phát triển theo gia tốc lớn của lịch sử trong thế kỷ XX - từ một nước còn bị nô lệ, rên xiết dưới hai tầng xiềng xích Pháp-Nhật đã vùng dậy làm một cuộc Cách mạng tháng Tám vĩ đại, rồi tiến hành hai cuộc kháng chiến trong suốt 30 năm, đi tới thống nhất và phát triển đất nước theo định hướng mới của chủ nghĩa xã hội, và đang triển khai một cuộc hội nhập lớn với nhân loại; - bây giờ, sau bao biến thiên ấy mà nhìn lại Đề cương về văn hoá Việt Nam năm 1943(1), quả không khó khăn, thậm chí là dễ thấy những mặt bất cập của Đề cương... trong nhìn nhận và đánh giá lịch sử dân tộc và văn hoá dân tộc, từ quá khứ đến hiện tại (ở thời điểm 1943); và nhìn rộng ra thế giới, trong cục diện sự phát triển của chủ nghĩa tư bản hiện đại; và gắn với nó, văn hoá, văn chương - học thuật cũng đang chuyển sang giai đoạn Hiện đại và Hậu hiện đại...

  • TƯƠNG LAITrung thực là phẩm chất hàng đầu của một người dám tự nhận mình là nhà khoa học. Mà thật ra, đâu chỉ nhà khoa học mới cần đến phẩm chất ấy, nhà chính trị, nhà kinh tế, nhà văn hoá... và bất cứ là "nhà" gì đi chăng nữa, trước hết phải là một con người biết tự trọng để không làm những việc khuất tất, không nói dối để cho mình phải hổ thẹn với chính mình. Đấy là trường hợp được vận dụng cho những người chưa bị đứt "dây thần kinh xấu hổ", chứ khi đã đứt mất cái đó rồi, thì sự cắn rứt lương tâm cũng không còn, lấy đâu ra sự tự phản tỉnh để mà còn biết xấu hổ. Mà trò đời, "đã trót thì phải trét", đã nói dối thì rồi cứ phải nói dối quanh, vì "dại rồi còn biết khôn làm sao đây".

  • MÃ GIANG LÂNVăn học tồn tại được nhiều khi phụ thuộc vào độc giả. Độc giả tiếp nhận tác phẩm như thế nào? Tiếp nhận và truyền đạt cho người khác. Có khi tiếp nhận rồi nhưng lại rất khó truyền đạt. Trường hợp này thường diễn ra với tác phẩm thơ. Thực ra tiếp nhận là một quá trình. Mỗi lần đọc là một lần tiếp nhận, phát hiện.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong dòng chảy của văn học Nga thế kỷ XX, bộ phận văn học Nga ở hải ngoại chiếm một vị trí nhất định, tạo nên sự thống nhất, đa dạng của thế kỷ văn học này (bao gồm các mảng: văn học đầu thế kỷ, văn học thời kỳ Xô Viết, văn học Nga ở hải ngoại và văn học Nga hậu Xô Viết). Nhưng việc nhận chân những giá trị của mảng văn học này với tư cách là một bộ phận của văn học Nga thế kỷ XX thì dường như diễn ra quá chậm (mãi đến những thập niên 70, 80 trở đi của thế kỷ XX) và phức tạp, thậm chí có ý kiến đối lập nhau.

  • TRẦN THANH MẠILTS: Nhà văn Trần Thanh Mại (1908-1965) là người con xứ Huế. Tên ông đã được đặt cho một con đường ở đây và một con đường ở thành phố Hồ Chí Minh. Trần Thanh Mại toàn tập (ba tập) cũng đã được Nhà xuất bản Văn học phát hành năm 2004.Vừa rồi, nhà văn Hồng Diệu, trong dịp vào thành phố Hồ Chí Minh dự lễ kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà văn Trần Thanh Mại, đã tìm thấy trang di cảo lưu tại gia đình. Bài nghiên cứu dưới đây, do chính nhà văn Trần Thanh Mại viết tay, có nhiều chỗ cắt dán, thêm bớt, hoặc mờ. Nhà văn Hồng Diệu đã khôi phục lại bài viết, và gửi cho Sông Hương. Chúng tôi xin cám ơn nhà văn Hồng Diệu và trân trọng giới thiệu bài này cùng bạn đọc.S.H