Lão Păk

09:03 01/03/2010
NHẬT HÀKhi đoàn thương nhân chúng tôi tới văn phòng tổng công ty K. thì bên đối tác gồm chục người tai to, mặt lớn đã tề tựu trong căn phòng rộng thênh thang, cửa kính sáng choang. Họ đứng dậy niềm nở bắt tay chúng tôi và ì xèo hỏi thăm sức khỏe chúng tôi sau gần một ngày bay từ Việt sang.

Minh họa: Ngô Lan Hương

Thủ tục xã giao kéo dài cả tiếng đồng hồ. Tôi hơi băn khoăn vì khi ở trong nước các anh cấp trên dặn dò rằng: người Hàn Quốc làm việc nguyên tắc lắm, rất đúng giờ, đi thẳng vào vấn đề chính, không có rượu, bia tiếp khách như ở bên ta... Bây giờ thì tôi nhận ra rằng, về sau thì đúng, còn về trước chẳng qua là mấy cha hù bọn tôi, những thương nhân lần đầu xuất ngoại!

Thỉnh thoảng vị tổng giám đốc lại nhìn ra cửa chính vẻ nôn nóng, rồi quay qua vị phó hỏi bằng tiếng Hàn. Tôi chẳng hiểu họ nói gì, song rõ rằng họ đang có ý chờ ai.

Thấy chúng tôi lộ vẻ sốt ruột, ông Kim, người đón chúng tôi từ sân bay Kimpô về khách sạn chiều qua, nói bằng tiếng Anh:

- Xin quí vị vui lòng chờ cho chút xíu, ông Păk ở Pusan bay lên, chắc cũng sắp tới.

Păk là cha nào mà quan trọng quá vậy, để mấy chục người phải chờ đợi? Đã có tổng giám đốc và phó, rồi các giám đốc điều hành các công ty con ở đây mà vẫn chưa vào việc? Hay lão Păk là chuyên gia giỏi về kỹ thuật dệt, nhuộm? Hay lão là người sáng lập ra tổng công ty này, đã nghỉ hưu, giờ chuyển qua làm chủ tịch danh dự? Nếu vậy thì người Hàn cũng có truyền thống trọng nhân nghĩa như ở bên ta... Một lát sau, có tiếng chuông reo, rồi cửa chính bật mở. Một ông chừng ngoài sáu mươi tuổi, đầu tóc bạc phơ như cước, nhưng coi bộ rắn rỏi, quăc thước, ăn vận sang trọng, bộ comlê màu mỡ gà, cà vạt đỏ tươi cười bước vô phòng và nói bằng tiếng Việt rất sõi:

- Xin chào quí vị! Tôi xin lỗi tới chậm vì bị kẹt xe. Tổng giám đốc bạn đứng dậy, bắt tay lão, rồi giới thiệu:

- Đây là ông Păk, thông dịch viên.

À, thì ra là vậy. Cả đoàn chúng tôi đều ú ớ tiếng Anh, tiếng Hàn thì mù tịt nên họ phải mướn thông dịch viên tiếng Việt. Tôi cứ cười thầm, tự trách mình đã phỏng đoán trật lấc. Rõ là mười lần đoán thì chín lần sai!

Sau khi lão Păk ngồi, tổng giám đốc bạn liền vào việc, bàn bạc với chúng tôi về hợp đồng mua bán máy dệt và lão Păk thông dịch lại.

Tôi vô cùng ngạc nhiên: lão Păk nói tiếng Việt giọng Hà Nội rất chuẩn, lão cũng rất rành các từ kĩ thuật ngành dệt. Đôi khi lão cũng nói được những từ địa phương niềm như bự, trễ, chút xíu...

Chắc hẳn là lão phải có thời gian sống khá lâu ở Hà Nội và Sài Gòn? Hoặc là một Việt kiều có nhiều năm làm nghề thông dịch? Rõ rang là thời nào cũng vậy "nhất nghề tinh, nhất thân vinh", người giỏi bao giờ cũng được trọng dụng và kiếm ra nhiều tiền!

Tôi chăm chú nhìn khuôn mặt lão Păk và tôi bỗng ngờ ngợ hình như tôi đã gặp lão ở đâu rồi, dù chỉ một lần? Cái linh tính cái cảm giác ban đầu thường chỉ dẫn ta nhiều điều lắm. Tôi cố vắt óc ra, cố nhớ xem đã từng gặp lão trong trường hợp nào? Nhưng có lẽ tuổi già, các nơron thần kinh đã giảm nhiều, nên tôi không sao nhớ ra được.

Trong suốt thời gian ông Kim hướng dẫn đoàn chúng tôi đi tham quan các nhà máy dệt ở tỉnh Toegu, tôi và lão Păk thường ngồi cùng băng trên xe con. Có lẽ lão thấy tôi già nhất đoàn, nên lão chọn ngồi cho có bạn? Đường dài, xe chạy tới đâu lão Păk cũng tự nguyện làm hướng dẫn viên du lịch, giới thiệu cho tôi các đình chùa, miếu mạo, các địa danh thị trấn và những đặc sản của từng vùng với giọng nói đầy nhiệt tình, vui vẻ.

Xe càng đi dần về phía nam Hàn Quốc, cái nóng càng trở nên khó chịu. Lão Păk rất tự nhiên cởi áo veston ôm vào lòng, rồi xắn tay áo sơ mi lên. Thật bất ngờ tôi thấy trên cổ tay trái lão có một cái sẹo. Tôi bần thần cả người mấy lần định mấp máy môi hỏi lão về cái sẹo đó, nguyên do vì đâu mà có? Nhưng lại sợ khiếm nhã và nhất là ngại mấy cha cùng đoàn đánh giá mình này kia nọ "thấy người sang bắt quàng làm họ". Tôi lại chợt nhớ tới trước ngày lên đường, sở công an có kêu tôi đến dặn dò. Người tiếp tôi là viên trung úy trẻ măng, nói: "Chú Hai, kỳ này chú đi công tác nước ngoài, chú là kĩ sư giỏi, chỉ xin lưu ý chú hai điều: một là, chú ráng cố vấn cho giám đốc nhà máy mua được máy xịn, hai là, chú đi rồi chú lại về..."

Bữa đó xém chút xíu là tôi đã nổi khùng. Rõ là trứng khôn hơn vịt! Ta đã gần sáu chục tuổi, đã qua hai cuộc chiến tranh mà mi còn phải dậy khôn? Nhưng tự kìm chế, tôi nói: Chú hiểu ý cháu, chú đã ở tuổi xế chiều rồi, bất quá tới thất thập cổ lai hy chú cũng theo về với tổ tiên, ngu gì mà gởi nắm xương tàn nơi đất khách, quê người?

Xe chạy một đoạn đường nữa dưới trời nắng chói chang, tôi đã buột miệng hỏi lão Păk:

- Anh Păk, tôi nói có gì không phải anh bỏ lỗi, vì sao anh có vết sẹo ở tay này?

Lão cười hồn nhiên như đứa trẻ:

- Năm 1950, tôi ở phố Hàng Đào Hà Nội, đi học trường tiểu học ở phố Nhà Chung, gần nhà thờ Lớn. Tôi chọc ghẹo một thằng bạn, nó tức khí lên, dùng cây viết có ngòi sắt đâm tôi tóe máu, thành cái sẹo này. Đây thực sự là một kỷ niệm sâu sắc trong thời thơ ấu của tôi, suốt đời tôi cứ ân hận mãi.

Tôi thấy buốt nhói con tim và hồi hộp hỏi lão:

- Anh còn nhớ thằng nhỏ đó tên gì không?

- Nó tên Đạm, Nguyễn Thanh Đạm.

Tôi rưng rưng xúc động nắm chặt tay lão:

- Trời ơi, thì ra là anh! Tôi chính là Nguyễn Thanh Đạm đây! Tôi vội rút ví, lấy ra tấm danh thiếp đưa cho lão. Mắt lão chợt mờ đi và ôm siết lấy tôi, vỗ vỗ vào lưng tôi: "quả đất tròn, quả đất tròn". Không ngờ nửa thế kỷ ta lại gặp nhau.

- Anh còn nhớ không, hôm đó thầy hiệu trưởng đã kêu tôi và anh lên văn phòng, rồi ông dùng thước kẻ quật vào mu bàn tay tôi đủ mười cái. Trời mùa đông rét tái tê, tôi đau điếng, ứa nước mắt, và tôi thấy anh cũng ứa nước mắt nhìn tôi. Thật là một bài học nhớ đời của tôi. Tôi có lỗi, tôi phải chịu, tôi không oán trách gì anh đâu, thật thế!

Lão Păk lại nắm lấy hai bàn tay tôi lắc lắc. Tôi đọc được trong cặp mắt lão niềm thông cảm sâu xa.

Tôi hỏi lão Pak về hoàn cảnh gia đình. Lão chậm rãi kể:

- Bà cụ thân sinh ra tôi là một Việt kiều họ Lý, con cháu chín đời của Hoàng tử Lý Long Tường ở Việt Nam, do một biến cố lịch sử đã phải chạy qua Hàn Quốc. Quê mẹ tôi thuộc một làng, tỉnh Bắc Ninh. Xưa mẹ tôi đẹp nổi tiếng và bà hát quan họ rất hay! Ngày đó, cha tôi là một nhân viên sứ quán Cao Ly ở Hà Nội. Cha tôi gặp mẹ tôi đi bán nón ở chợ Đồng Xuân và hai người đã yêu nhau, rồi lấy nhau. Mẹ tôi sinh ra tôi trong một căn nhà ở phố Hàng Đào. Tôi đã được mẹ Việt nuôi nấng bằng dòng sữa và những lời hát ru, lời hát quan họ! Sau khi Pháp rút khỏi Hà Nội năm 1954, tôi theo cha vô Sài Gòn làm ở sứ quán Cao Ly thời Diệm. Năm 1972, cha tôi nghỉ hưu và gia đình tôi trở về Pusan Hàn Quốc sinh sống. Nay cha mẹ tôi đều đã qua đời. Trước khi từ biệt cõi đời, mẹ tôi có kêu tôi đến bên giường trối trăng rằng: "Păk con à, sau này con phải tìm cách về lại Việt , thăm quê hương quan họ của mẹ, về lại ngôi nhà số... phố Hàng Đào nơi mẹ đã sinh ra con..." Nói rồi mắt lão nhìn ra xa vời, dường như lão đang nhớ về hình ảnh người mẹ Việt thân thương đã đi xa gần chục năm rồi! Im lặng hồi lâu, lão lại tiếp: - Hồ Hoàn Kiếm có còn thơ mộng như xưa không, anh? Tháp Rùa chắc vẫn lung linh soi bóng xuống mặt hồ xanh màu lá? Những cây liễu có còn thướt tha thả tóc mềm như những cô gái bên hồ? Và chợ Đông Xuân có còn đông vui, nhộn nhịp?...

(minh họa: Ngô Lan Hương)


Tôi thong thả trả lời từng câu hỏi của lão. Lão vô cùng xúc động.Thỉnh thoảng tôi thấy lão rút mùi-xoa thấm thấm hai con mắt. Hai đêm chúng tôi ở thành phố Taegu , một thành phố công nghiệp có rất nhiều trường đại học. Hàng tối tôi thấy các nữ sinh viên váy áo sum suê, đi lại nhộn nhịp, cười nói vô tư như bầy chim.

Tôi được bố trí ngủ cùng một phòng với cậu Thuần, một quản đốc trẻ và vui tính. Tối đó, nằm chung giường đệm, Thuần hỏi tôi:

- Bố Đạm này, con hỏi khí không phải, đi đường, trên xe bố nói gì với lão Păk mà nhiều thế, chuyện cứ nở như bắp rang, vui như Tết?

- Thì lão là thông dịch viên, mình cũng phải tranh thủ cảm tình, lão có dịch chính xác thì bọn mình mua máy mới không bị cao giá.

Thuần cười khẹc khẹc:

- Nói vậy mà không phải vậy bố à, con biết tỏng rồi.

- Mày biết gì, nói nghe? Tôi sừng sộ.

- Bố tính móc nối với lão Păk, tính ở lại cư trú chánh trị hả?

Thuần lại cười, và vội nằm lùi xa. Tôi tức khí muốn đỏ con mắt, định táng cho hắn một cú, nhưng rồi tôi điềm tĩnh nói:

- Loại trẻ khỏe, chưa vợ con như mầy, nó mới ham, chớ đầu bạc răng long, gần đất xa trời như tao, chúng nó rước mà mang vạ và?

- Í a, bố là lao động có kĩ thuật, nó gật sái cổ.

Tôi liền ngâm nga hai câu thơ của Pablo Neruđa:

- Nếu cho tôi được chết ngàn lần, tôi nguyện chết ở quê hương tôi đó. Nếu tôi được ngàn lần sinh nở, tôi nguyện sinh nơi đó quê tôi!

- Bố văn nghệ hết sức - Thuần lại cười vui, rồi bảo:"nhậu đi bố!"

Chợt chuông điện reo vang. Tôi bảo Thuần:

- Giờ này gần chín giờ tối rồi, trưởng đoàn tính qua rủ nhậu chắc? Ra mở cửa đi mầy!

Thuần đi ra. Và thật bất ngờ tôi thấy lão Păk xuất hiện trong bộ pyjama, tay xách theo một chai rượu, vui vẻ nói:

- Xin chào hai ông. Tối mà hai ông không nhậu sao? Tôi biết ở Việt mấy cha thích uống rượu lắm mà. Ở bắc Việt có rượu làng Vân, ở nam Việt có đế Gò-Đen cực kỳ nổi tiếng, uống vào ngọt thỉu mà nóng ran người!

- Bọn mình cũng đang tính nhậu đây, nhưng trong tủ lạnh chỉ có bia, ngán thấy mồ - tôi nói.

Lão Păk cười khà khà rồi giơ cái chai lên:

- Tôi mang tới chai rượu "cuốc lủi" ngâm sâm cao ly đây, ta cùng nhậu và nói dóc chơi.

Thuần mở tủ lạnh lấy ra một hộp đậu phộng. Lão Păk rót rượu ra tách trà, được vừa đúng ba tách, lão bảo:

- Ở Pusan , bà Choi nhà tôi, mỗi tối chỉ cho tôi uống đúng một ly rượu sâm này. Uống thứ này vô, "sưng lắm"!

Hiểu ý lão, ba chúng tôi cùng cười vang và nâng cốc, nhâm nhi, rồi nói chuyện vui vẻ. Tất nhiên lão Păk toàn kể về những kỉ niệm ở Việt mà mấy chục năm lão đã sống.

Sau ba ngày làm việc ở Taegu, chúng tôi lên xe lửa tốc hành đi thăm Pusan, thành phố hải cảng của Hàn Quốc ở miền cực nam, cách Seoul hơn 300 km.

Tôi cùng lão Păk ngồi bên cửa sổ, nhìn ra đồi núi lô nhô, nhìn ra đồng lúa nước ngát xanh. Tôi nói: "Mùa hè phong cảnh Hàn Quốc rất giống Việt ". Lão Păk bảo: "Ông nói đúng, nhưng mùa đông Hàn Quốc tuyết phủ khắp nơi trắng xóa. Mùa đông Việt đâu có tuyết? Và miền Nam Việt không có mùa đông!" Tôi rất chịu những nhận xét rất chính xác của lão Păk về khí hậu của nước ta.

Xe lửa lại vù vù cuốn gió. Tôi chợt nhìn thấy một con sông rộng mênh mông và ngầu đỏ phù sa, hệt như dòng sông Hồng của nước ta. Một con thuyền lớn với cánh buồm nâu rất to đang lướt nhẹ trên sông trước nền một rặng núi xa mờ. Tôi thốt lên: "Ôi đẹp qúa! phong cảnh đẹp tựa một bức tranh thủy mặc của một họa sĩ tài danh, anh Păk".

Lão Păk nhìn tôi, rồi lão cười rung mái đầu bạc phơ: "Ông Đạm, ông thiệt có tâm hồn mơ mộng". Ngừng giây lát, lão lại nói: "Ông có nhớ thi sĩ nào của Việt có bài thơ lục bát rất hay về cánh buồm nâu không?"

Tôi vắt óc suy nghĩ. May thay tôi cũng nghĩ ra, nếu không thì quê một cục. Tôi khẳng định: "Thi sĩ Nguyễn Bính!". Lão Păk đưa mắt, nhìn tôi, lão ngâm nga đọc thơ:

Sáng ra xuống bến xuôi đò
Thương nhau qua cửa tò vò nhìn nhau
Anh đi đấy, anh về đâu
Cánh buồm nâu, cánh buồm nâu, cánh buồm...

Rồi lão buông lời bình: "Thi sĩ Nguyễn Bính tả cảnh, tả tình thật là tuyệt vời!"

Rất tâm đắc với lão, tôi liền tán thêm: "Nhịp điệu thơ mới thật là kỳ diệu, thưa anh:

Cánh buồm nâu...
                        cánh buồm nâu...
                                    cánh buồm...

Nỗi nhớ của người con gái với người con trai mới da diết làm sao!"

Chợt nhiên lão Păk nhíu cặp chân mày bạc trắng, rồi nói như tâm sự:

- Ông Đạm à, đã từ nhiều năm nay, tôi cứ nung nấu một mơ ước là trước khi về với tổ tiên, tôi phải dốc sức lực và hiểu biết để biên soạn một cuốn từ điển Hàn-Việt, Việt-Hàn để cống hiến cho hai đất nước chúng ta xích lại gần nhau hơn. Tôi có một đề nghị với anh như vầy, liệu anh có vui lòng giúp tôi không?

Tô hơi ngạc nhiên và quả thật là cũng hơi ngán ngại:

- Dạ, có chi xin anh cứ nói.

- Tôi muốn mời anh cùng cộng tác với tôi trong việc biên soạn cuốn từ điển đó.

Tôi giẫy nẩy:

- Tôi tự thấy mình tài hèn, sức mọn, nhất là trong việc chữ nghĩa, văn chương. Tôi e rằng, điều đó vượt quá sức tôi!

Lão cười, nhìn chằm vô tôi, rồi nói:

- Anh quá khiêm nhường. Mấy ngày qua, trò chuyện cùng anh, tôi hiểu anh rất rành về ngôn ngữ và văn học Việt tuy anh là một nhà kĩ thuật. Tôi rất mong anh hợp tác cùng tôi, xin anh đừng từ chối. Tôi đã nhờ mấy người bạn qua Việt Nam công tác mua dùm tôi cuốn Từ điển tiếng Việt, nhưng về họ đều nói cuốn đó ở Việt Nam sao rất chi là hiếm, không thấy bán ở hiệu sách nào. Anh có thể giúp tôi?

Tôi suy nghĩ và nói: "Xin anh cho tôi suy nghĩ ít hôm, có gì tôi thưa với anh sau, chứ hợp tác biên soạn thì quả thật tôi không dám".

Sau một ngày đi tham quan cảng Pusan , khi hoàng hôn buông xuống một màu trắng bạch, (*) lão Păk nắm tay tôi nói:

- Tới đây tôi đã hoàn thành công vụ, xin phép các anh cho trở về nhà, xin chúc các anh thượng lộ bình an!

Tôi chưa kịp đáp lời thì thấy một chiếc xe con đỗ xịch, và một người phụ nữ chừng ngoài năm chục tuổi hồng hào, phúc hậu bước ra khỏi xe, chạy vội đến bên lão Păk. Lão vui vẻ giới thiệu:

- Đây là bà Choi, phu nhân của tôi. Đây là các anh bên Việt , quê mẹ của anh, mới qua công tác.

Người phụ nữ chắp tay cúi chào chúng tôi theo phong cách phụ nữ Hàn. Chúng tôi cũng chắp tay xá lại bà. Rồi tôi nói:

- Xin từ biệt anh chị, rất mong gặp lại anh chị ở Việt .

Chúng tôi chia tay nhau với những bàn tay vẫy mãi, cho tới khi xe của ông bà khuất dần.

Năm sau, một sáng tôi đang ở trong nhà máy thì nhận được giấy bưu điện báo nhận bưu phẩm. Linh tính báo cho tôi biết là sẽ nhận được bưu phẩm của lão Păk, chắc chắn là cuốn từ điển Hàn-Việt, Việt-Hàn. Tôi vội vã phóng xe đi... Mở gói bưu phẩm ra, tôi thấy một bì thư, vội bóc ra đọc:

"Ông Đạm, tôi là Choi, vợ của anh Păk, xin gởi tới quí ông lời cầu chúc sức khỏe và hạnh phúc! Xin báo với ông một tin đau buồn:

Anh Păk, người chồng thân yêu của tôi, người mang hai dòng máu Hàn-Việt đã đột ngột qua đời ở tuổi 72, sau hơn một năm ròng rã anh tập trung trí lực hoàn thành việc biên soạn cuốn từ điển Hàn-Việt, Việt-Hàn này. Trước khi vĩnh biệt, anh có trăng trối với tôi rằng, khi nào cuốn Từ điển in xong nhớ gởi qua tặng ông một cuốn và nói lời cảm ơn ông đã gởi cho cuốn từ điển tiếng Việt vô cùng quí báu! Anh cũng khóc và nói rằng: vậy là anh đã không làm trọn lời hứa với mẹ anh là qua Việt thăm lại quê ngoại. Anh thực sự là một đứa con bất hiếu với Mẹ Việt !
            Kính chào ông
            Choi"

Đọc xong thư và cầm cuốn từ điển dầy cộm với bìa nâu bóng láng tôi bần thần cả người, tim tôi đau thắt: Vậy là anh Păk đã không được nhìn thấy đứa con tinh thần mà anh hằng ao ước trước lúc đi xa! Tôi thầm nói với anh: "Anh Păk ơi, nơi suối vàng, xin anh hãy yên lòng an nghỉ. Với Mẹ Việt , anh không bao giờ là đứa con bất hiếu đâu anh!"

Tôi chầm chậm bước đi và cứ thầm ngẫm nghĩ: Ở đâu, trên trái đất này, dưới vòm trời này cũng đều có những người tốt. Điều căn bản là chúng ta sống ra sao, cư xử với họ ra sao để họ có thể phát huy hết lòng tốt. Đó mới thực là điều quan trọng!

N.H
(121/03-99)



---------------------------------
(*) Ở Hàn Quốc, mùa hè 20 giờ vẫn còn mặt trời.





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • PHAN TUẤN ANHLớp Lý trong một chiều nhốn nháo. Vài đứa con gái ngồi sụt sùi cho nhân vật nữ trong phim trên ti vi chết sớm và nguyền rủa đạo diễn như một tay giết người. Những đứa con trai thì tiếc rẻ cho một vài pha bóng hụt tối qua, để lại hậu quả là mất hẳn một "tháng lương" mà nhẽ ra đã có thể lĩnh sáng nay tại... chủ quán.

  • NGUYỄN VIỆT HOÀLGT: Khi ánh sáng phản chiếu từ mặt trái đồng tiền ùa vào cánh cửa làng mở rộng, “sức nóng” của nó gần như thiêu rụi mọi nền tảng đạo đức một bộ phận không nhỏ đám thượng lưu gồm cả quan viên hương lý. Căn bệnh mà tác giả Nguyễn Việt Hoà mổ xẻ trong truyện ngắn dưới đây, dẫu chưa cao tay để diệt bằng hết những vi-rút-làng, song việc ngăn chặn một đại dịch bắt đầu là có thể...S.H

  • TRẦN HẠ THÁP1/ Người đàn ông đang huơ rìu. Liên tục những bi củi tươi bị xé phanh, toang toác. Gió lạnh một buổi tàn đông, sắp Tết nhưng trên khuôn ngực mồ hôi loang lổ như mưa. Xóm lò heo. Buổi sáng chưa mở mắt đã hỗn độn, mù trời hơi nước. Cái thế giới được khoanh vùng bằng tiếng kêu bi thiết các con vật thảm tử. Mùi phân chuồng phát tán, nghẹt thở. Tiếng người lê la trả giá, mặc cả. Tiếng cười rộ lên đắc ý trộn lẫn tiếng chửi thề tục tằn đe doạ. Đâu đó, mơ hồ giọng trẻ con khóc và tiếng ru hò ngái ngủ xa xôi…

  • NGUYỄN NGỌC LỢITôi diện bộ "téc gan" quân nhu, dắt súng vào người, dặn dò cậu lái xe rồi hoà vào dòng người đi ra sân bay. Được giao nhiệm vụ về nước sắm hàng, gặp một sự kiện quan trọng, tôi không muốn bỏ lỡ dịp được chứng kiến. Thị xã Lộc Ninh năm 1973 đã trở thành thủ đô của chính phủ cách mạng.

  • THÁI BÁ TÂN…Con chim hung dữ màu đen là trọng tâm của bức tranh, được ông giành hết tâm sức miêu tả rất sống động. Trong tranh, nó đang bám chân vào ngực Prômêtê, xoè hai cánh giữ thăng bằng, chiếc mỏ khoặm ngậm một miếng tim vừa moi từ lồng ngực khổng lồ của chàng…

  • NGUYỄN ĐỨC SĨ TIẾNMọi người đến Huế với những lí do khác nhau. Riêng các văn nghệ sĩ thì thường đến để tìm cảm hứng sáng tác. Tuy nhiên ý tưởng của mỗi người thì mỗi khác, chẳng ai giống ai. Họa sĩ Vĩnh Trung và nghệ sĩ Hải Lý là một trong những trường hợp như vậy.

  • XUÂN ĐÀIChuyện thằng Thanh con cô Ngoan ở làng Đông cuối tháng này tổ chức đám cưới với con Thuý con cô Lâm ở làng Nổi, dân xã Vĩnh Sơn ai cũng tỏ tường. Cái đận cô Lâm có chửa, điều tiếng khắp làng, người ta đoán già đoán non về cha của đứa bé. Đoán vụng đoán trộm, thì thầm nhỏ to sau lưng, chứ thấy bóng cô đi ngang qua là họ im bặt. Nó mà nghe được nó tế cho! Nó vén mồm, vén váy, réo tên cúng cơm ba đời nhà mình ra mà chửi.

  • PHẠM THỊ XUÂNChị Xoan trở mình nhè nhẹ, sợ làm đứa cháu giật mình thức giấc. Chị quay mặt  vào tường như cố tránh cái ánh sáng xanh dịu phát ra từ ngọn đèn ngủ. Chị nhắm kín mắt nhưng vẫn không sao ngủ được. Đầu óc chị rối bời bao ý nghĩ. Có một cái gì day dứt, một cái gì tiếc nuối, một cái gì hẫng hụt vừa đi vào cuộc đời chị. Chị bỗng thấy lòng mình trống trải đến vô vị...

  • PHẠM THỊ XUÂNLGT: Ấn tượng của một nữ tác giả mới lần đầu tiên gửi tác phẩm đến cho TCSH thật khá đậm đà. Ấy là Phạm Thị Xuân, một phụ nữ ở độ tuổi đã qua thời thanh xuân, đang công tác tại một đơn vị y tế huyện Quảng Điền.

  • QUÝ THỂCó ai đến nhà chơi, bà cụ Tuần chỉ mép tấm phản gỗ mời ngồi, bà nói:- Giang sơn của "bầy choa" (chúng tôi) chỉ có chừng ni. Không ghế bàn, xa lông, sập gụ tủ chè chi cả, chịu khó ngồi đỡ, ông bà mô áo quần trắng trẻo sạch sẽ sợ dơ, thì ngồi lên đây. Bà cụ xoè cái quạt giấy cũ đã rách, lộ ra mấy cái nan tre lót cho khách ngồi. Nhưng không ai nỡ ngồi lên cái quạt giấy của cụ.

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO...Sáng hôm ấy bà con xóm đạo đi lễ rất đông. Người ta nhìn thấy một vệt sao băng vào lúc trời tảng sáng. Họ cho rằng Chúa thấu hiểu được nỗi đau đang dày xéo trên thân thể Xoan. Nhưng cũng chính vì thế mà bố cô lại quay về làm chính con người liêm khiết hồi xưa. Thiên đường cũng có những con đường riêng để người ta sám hối.

  • XUÂN ĐÀI 1. Mỗi lần từ quê trở về Sài Gòn, sống bên chồng và hai đứa con, tôi không nguôi nhớ đến chị. Năm nay chị đã ngoài bốn mươi, không chồng, không con, lủi thủi ra vào trong ngôi nhà một gian hai chái. Ngôi nhà vừa được xây dựng cách đây gần ba năm bằng số tiền chị tằn tiện, chắt bóp mười mấy năm và tiền vợ chồng tôi phụ giúp chút đỉnh. Vài ba năm, vợ chồng con cái chúng tôi mới về thăm chị một lần. Chị mừng, chị vui, trò chuyện với các cháu suốt ngày. Chị quấn quýt lũ trẻ, lũ trẻ cũng quấn quýt chị.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNGNgày trăng tròn lẻ. Tháng Trung Thu năm Đại Bảo thứ 3.Người hai lưỡi bảo là ngày Sao Thổ phạm vào Thái Âm.Người ngắn lưỡi nói Sao Chổi mọc ở phương Tây.Người dài lưỡi bảo có tinh vượn đen ăn mặt trời, ngày Nhật thực, nếu không yểm kỹ sông Nhị đang nảy vàng ròng sẽ ngừng.Động đất.

  • VIỆT HÙNGTrước đây, anh là người lừng danh, một tay "cua - rơ khét tiếng" trên xa lộ. Đã một thời anh chỉ biết chiến thắng. Người ta từng mệnh danh, anh là người sinh ra để đua xe đạp, anh không hề có đối thủ. Anh xem thường sự chiến thắng của mình, cho nó là điều hiển nhiên. Anh coi ánh hào quang của vòng nguyệt quế chỉ có tác dụng tô điểm thêm cho vẻ đẹp của mình mà thôi. Bởi, không có nó, anh vẫn là một thần tượng chẳng gì "khuất phục nổi".

  • NGUYỄN THÁNH NGÃĐêm nay trăng nhão, không biết là đêm trăng gì. Ở xa nhìn về đồi Kà Mạ vẫn một khối đen sì. Nếu có ai nhướn mắt nhìn thật kỹ sẽ thấy cái khối đen sì ấy nhô lên như một cái đầu người đôi mắt lấp láy đom đóm. Thỉnh thoảng gió hất cái đầu tóc rối bù xù bay về phía ruộng. Tiếng chim cú kêu mỗi lúc một thê lương, ớn lạnh từng đốt xương sống...

  • THÁI BÁ TÂNTháng trước, ở phường B. thị trấn Đức Giang, huyện Gia Lâm, nơi tôi về nghỉ hưu mấy năm nay, đã xẩy ra một vụ trọng án có nhiều tình tiết rất kỳ lạ, có thể nói bí ẩn không sao giải thích nổi, đến mức cuối cùng người ta quay sang cho rằng nhất định phải có yếu tố thần linh ma quỷ trong vụ này.

  • PHẠM THỊ ANH NGA                  Truyện ngắn...trái tim có những lý lẽ mà lý trí không thể nào biết được...

  • PHAN VĂN LỢIBuổi giao lưu và trao giải thưởng cho các tác giả đoạt giải trong cuộc thi viết truyện ngắn do Hội Nhà văn tổ chức đã tiến hành được gần nửa giờ. Gã nhấp nhỏm trên chiếc ghế kê phía sau cánh gà sân khấu, bồn chồn không yên. Chừng thông cảm với tâm trạng của gã, cô gái phục vụ mặc áo dài đỏ bưng tới cho gã ly nước, nhẹ nhàng nói: "Chú cứ yên tâm ngồi nghỉ cho khoẻ. Giải A bao giờ cũng trao cuối cùng, chú ạ!"

  • KHẢI NGUYÊN Pa-ri, mùa hạ năm 198...Vườn Bách thảo giữa thành phố kề sông Xen phía tả ngạn. Ông đến đây như một kẻ lánh đời, sợ nơi đông người. Thật ra, phần lớn đường phố Pa-ri trong giờ làm việc không ồn, không thừa thãi người đi nhong như ở Việt Nam. Em ông ở quê ra Hà Nội chơi đứng ngắm dòng người và xe nườm nượp qua lại cứ tự hỏi: những con người này đi đâu, về đâu mà tuôn mãi như là chẳng ai về nhà cả, như là cái "nghiệp" trời đày phải đi.

  • ĐỖ KIM CUÔNGNhiều năm trôi qua tôi đã trở thành người đàn ông đứng tuổi. Có một mái ấm gia đình, vợ con hạnh phúc. Nhưng mỗi lần nghĩ về nàng, một người đàn bà chỉ kịp quen trên chuyến đò từ Huế ra Phong Điền, chia tay nàng để nhiều năm sau, tôi mới được gặp lại nàng trong một hoàn cảnh khác, tôi vẫn giữ nguyên một cảm giác hết sức lạ lùng. Một ý nghĩa luôn ám ảnh tôi khá kỳ quặc rằng: Tôi đã bị nàng hiểu lầm, là một chàng lính giải phóng “hám gái, dại khờ”... Bởi vì sau vụ việc ấy, chính tôi cũng rủa thầm mình là ngu ngốc.