Làng Mỹ Á

15:44 04/01/2022


MAI VĂN ĐƯỢC

Đình làng Mỹ Á

1. Mỹ Á là một ngôi làng cổ của xứ Huế, nằm trên dải cát “tiểu trường sa”1 và hướng ra Biển Đông. Năm 1558, chúa Tiên Nguyễn Hoàng vào trấn thủ xứ Thuận Hóa. Từ đây, các nhóm cư dân Nam tiến vào khai phá những vùng đất mới còn trống hay cùng chung sống với những lớp cư dân trước đó. Ở vùng ven biển Thừa Thiên Huế trong thời điểm này có nhiều làng được thành lập, như An Dương, Hoa Diên (Phương Diên), Hoa Lộc (Diên Lộc), Mai Vịnh (Mai Vĩnh), Tiên Sa (Tân Sa), Thuần Mỹ (Khánh Mỹ), Kế Đăng (Kế Võ), Đường Thiên (Xuân Thiên), Hà Thanh, An Đôi (An Bằng), Mỹ Toàn (Mỹ Lợi), Trị Lũy (Phụ An)… Trong xu thế đó, làng Mỹ Á cũng ra đời. Sự hình thành làng xã ven biển Thừa Thiên Huế nói chung, làng Mỹ Á nói riêng nằm trong quy luật khẩn hoang lập làng ở vùng Thuận - Quảng: “Thời Lê sơ là khai khẩn khắp các địa bàn căn bản trên vùng đồng bằng và tiến hành khai lập xã hiệu. Thời chúa Nguyễn là khai khẩn bổ sung trên những đất đai còn lại, gồm vùng gò đồi “lâm lộc” ở phía tây và dải cát “thổ ương” ven biển, cùng với những bàu đầm ở phía đông, lập nên những thôn, ấp hiệu mới”2.

Người có công lớn nhất trong việc khai phá lập làng là ông Huỳnh Văn Gộc, quê gốc ở Thanh Hóa. Theo lời kể của các bậc cao niên trong làng, thủy tổ họ Huỳnh là Huỳnh Văn Gộc nguyên là lính của chúa Nguyễn Hoàng, được cử đi trấn thủ cửa Tư Hiền; sau đó ngài về khai phá vùng đất Mỹ Á. Trong quá trình làm nhiệm vụ, ông còn dùng sức mình điều khiển trâu để khơi thông cửa biển Tư Hiền. Tuy ông có công đầu tiên khai phá lập làng Mỹ Á nhưng chỉ nhận sắc khai khẩn. Chính điều này đã tạo ra một điểm hết sức đặc biệt trong văn hóa làng xã ở Mỹ Á, đó là “tiền hiền khai khẩn, hậu hiền khai canh”, khác với các làng khác - “tiền hiền khai canh, hậu hiền khai khẩn”. Triều vua Khải Định ban sắc phong cho ông với mỹ tự “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần”.

Sau họ Huỳnh là ba họ Lê, Nguyễn, Phạm. Ba họ này cùng với họ Huỳnh khai phá vùng đồng bằng ven biển, vùng lâm lộc ở trảng cát để lập nên làng Mỹ Á. Ghi nhận công lao đó, triều Nguyễn đã có sắc phong khai canh cho họ Lê, Nguyễn, Phạm. Tuy nhiên, trải qua chiến tranh bom đạn loạn lạc, các sắc phong này đã bị mất. Tư liệu hiện tồn ở làng Mỹ Á chỉ còn phản ánh mỹ tự được phong là “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Đoan Túc tôn thần”. Trong số ba họ khai canh thì chỉ còn lại họ Nguyễn truyền nối trải đến nay 16 đời, trở thành một họ lớn trong làng. Theo Nguyễn tộc phổ hệ, dòng họ này quê gốc Gia Miêu Ngoại Trang, huyện Tống Sơn, phủ Hà Trung, tỉnh Thanh Hóa3.

Tiếp đến là các họ Trương, Hồ, Trần, Cao vào khai phá đất đai, được triều Nguyễn ban sắc phong với mỹ tự “Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Tôn Thần”. Họ Trương quê gốc ở Thanh Hóa, dần di cư vào làng Sen, Nam Đàn, Nghệ An, rồi vào Thuận Hóa. Họ Hồ quê gốc vùng Thanh - Nghệ vào khai phá đến nay được 14 đời. Họ Trần gốc làng Rào, tổng Bất Náo, huyện Lôi Dương, phủ Thiệu Thiên, trấn Thanh Hoa (nay thuộc huyện Thọ Xuân, tỉnh Thanh Hóa). Họ Cao có nguồn gốc từ làng Thanh Lam (Thủy Phương, Hương Thủy, Thừa Thiên Huế). Tiếp sau là các dòng họ Đoàn, Mai, Lê, Lưu, Bùi, Phan... cũng đến Mỹ Á sinh sống. Hiện nay, làng Mỹ Á có tất cả 47 họ lớn nhỏ, các dòng họ chung sống hòa thuận, giúp đỡ lẫn nhau và đặc biệt luôn hăng hái trong công việc chung của xóm của làng.

Nhờ công lao khai phá của các vị tiền hiền, hậu hiền, làng Mỹ Á có 11 xứ đất, gồm: Ma Á, Thượng Á, Hạ Á, Ông Lễ, Ông Đích, Bến Vội, Bến Nẫy, Bến Trung, Bến Sơn, Ông Chú, Hạ Ông Chú và chia thành 11 phường/xóm: Mỹ Hòa, Mỹ Hiệp, Mỹ Lộc, Mỹ Thái, Mỹ Thành, Mỹ Xương, Mỹ Tường, Mỹ Khánh, Mỹ Phước, Mỹ Long, Mỹ Thiện.

2. Cư dân làng Mỹ Á lấy nghề nông và nghề biển làm nguồn sống chính. Nghề nông ở làng Mỹ Á xưa chủ yếu là trồng lúa. Mỗi năm, người dân trồng 2 vụ lúa: vụ mùa (vụ đông xuân) bắt đầu từ tháng Giêng đến tháng 4 âm lịch, trồng giống lúa trắng, chiêm…; vụ trái (vụ hè thu) từ tháng 5 đến tháng 8 âm lịch, trồng giống lúa hẻo rằn, chiên, nước mặn... Ngoài lúa thì nơi đây nổi tiếng với “môn - khoai”. Môn thích hợp với vùng đất cát ẩm, trồng vào tháng Giêng, thu hoạch tháng 7 âm lịch. Môn làng Mỹ Á có nhiều loại, như môn sáp vàng, môn chấm, môn khất… Cây môn được người dân tận dụng một cách triệt để: củ dùng nấu chè, luộc hay xắt lát phơi khô; thân dùng làm dưa môn; lá phơi héo để gói mắm, ruốc. Khoai Mỹ Á là các loại khoai bay, khoai vồ (chứa nhiều tinh bột), khoai dở (củ có màu đỏ), khoai giận… Trên vùng cát trắng, khoai trồng vào tháng 8 đến tháng 11 âm lịch thì thu hoạch; ở cánh đồng bên bờ biển trồng vào tháng Giêng và tháng 4 âm lịch là có thể “bới” khoai. Khoai trồng ở đất cát trắng thì rất bở, nhiều tinh bột; còn khoai trồng ở gần bờ biển lại có vị ngọt ngọt, mặn mặn rất thú vị. Chính vì môn, khoai được trồng nhiều, lại nổi tiếng thơm ngon nên đã đi vào ca dao nơi đây:

Trăng rằm đã tỏ lại tròn,
Khoai lang đất cát đã ngon lại bùi.


Hay:

Môn khoai Mỹ Á,
Mía mã Nam Trường,
Nương vườn Mỹ Lợi…


Làng Mỹ Á còn nổi tiếng với cây dừa. Trước đây, dừa được trồng rất nhiều. Dừa Mỹ Á được cho là có nước ngọt thanh vì nhờ nguồn nước và có vị mặn của hơi nước biển. Dừa là đặc sản, được người dân đem đi bán nhiều nơi, lên tận thành phố Huế. Các vị cao niên trong làng còn kể rằng, dừa Mỹ Á rất sai quả, có buồng đến 60 trái và đã từng đem đi triển lãm ở thành phố Huế vào những năm 1960.

Trong cơ cấu kinh tế của làng Mỹ Á thì ngư nghiệp đóng vai trò rất quan trọng, chỉ đứng sau nông nghiệp. Từ khi thành lập làng thì người dân đã biết vươn khơi đánh bắt hải sản. Trước đây, ngư dân Mỹ Á trang bị các loại thuyền có sườn gỗ, đan nan tre, trét dầu rái, chèo tay; dùng lưới để thả cá; cần câu, ống câu để câu cá. Nghề câu khá phát triển ở làng Mỹ Á. Thông thường, các ngư dân dùng thuyền buồm để đi câu, mồi câu là cá nục, tôm, cá trích, cá cơm... để câu nhiều loại cá khác nhau, như cá thu, cá cờ… Nghề câu còn dùng mồi giả là các sợi kim tuyến hay dây nilon tết khéo léo thành hình cá con để dụ các loài cá nục, bạc má, ngân, mối… Mực cũng được đánh bắt bằng cách câu nhưng vào ban đêm. Bên cạnh nghề câu thì nghề lưới khá đa dạng, có nhiều loại lưới với nhiều loại kích cỡ khác nhau. Ngư dân thường làm nghề lưới hai, lưới ba, lưới chuồn, lưới nổi, lưới trích và lưới mực. Đối với nghề lưới, đòi hỏi người ngư dân phải có kinh nghiệm và xác định các con nước trong năm. Mỗi loài cá có một tập tính và thích nghi một môi trường hay dạng “địa hình” khác nhau như vùng thấp, vùng cao, những lạch sâu, lạch cạn, cũng có chỗ là cát biển, cũng có nơi là bùn, đá, rạng san hô…, ngư dân căn cứ vào việc xác định đúng con lạch, dạng “địa hình” mà đánh cá. Cùng với đó còn có nghề đánh ruốc, bủa rùng, đánh mành... Ruốc đánh bắt được người dân nơi đây tiến hành chế biến thành mắm ruốc.

3. Là làng nửa nông nửa ngư nên trong văn hóa của làng Mỹ Á cũng phản ánh lên điều đó. Ngoài tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên như nhiều làng khác, Mỹ Á có tín ngưỡng thờ đa thần, gồm nhiên thần và nhân thần, thờ những vị thần phù hộ cho nghề nông và cả thần phù hộ cho nghề biển. Theo văn tế lưu tại đình làng, Mỹ Á thờ các vị thần sau: Đại Càn Quốc gia Nam Hải tứ vị thánh nương vương; Chàng Cả Hiển Ứng, Chàng Hai Gia Ứng, Chàng Ba Phúc Ứng, Chàng Tư Trừng Thanh, Chàng Năm Uyên Tuyền ngũ vị Long vương; Tổ hoàng liệt vị thánh đức tôn vương; Linh thông bổn thuộc cương vân cương khương cương túc thành hoàng chi thần; Kỷ Mùi khoa tiến sĩ Phi Vận tướng quân Tùng Giang Văn Trung tôn thần; Đông Nam Sát Hải Lang Lại nhị đại tướng quân; Lãnh quân Tô Hồ đại tướng; Hoàng Sát Hải Hồ Đại Liệu; Tứ đầu gia cầm; Tam vị đàn nương; Phi mã xích lân đại tướng quân chi thần; Quan thánh đế quân; Tể lộ giác hải chi thần; Chưởng quảng bạo chi thần; Tứ Dương Linh Trạc Diệu Ứng Quảng Tế Linh Thông Địch Võ Bao Cương Thành Quốc công chi thần; Khai hoàng bổn thổ quan Đội trưởng Trương quý công chi thần; Thái Giám Bạch Mã chi thần; Thành quốc quý dận hải quốc công chi thần; Ông Cả bà Mang chi thần; Thiên Y A Na Diễn Ngọc Phi chi thần; Cao Các Quảng Độ đại vương; Bà Dương tiên nương chi thần; Bà Hồng tiên nương chi thần; Ngũ hành tiên nương chi thần; Tam giáo cửu lưu thánh hiền tiên sư; Ngũ phương thổ công chi thần; Đông trù tư mệnh táo phủ thần quân; Công tử nhị vị chi thần; Nam Hải Cự Tộc Ngọc Lân liệt vị chi thần; Nghị Trực Kiệt Tiết lãnh Trà quận phu nhân chi thần; Ma Á bổn thổ giới hạn chi thần; Nội Hữu Chưởng doanh Võ Trung hầu tặng Tán Trị Công Thần Trấn Phủ Võ quận công Nguyễn công húy Phúc Thế gia tặng Thiếu Truyền Trung Lượng Phủ quân đại thần; Triều tôn mệnh phụ Tống Sơn quận chúa Võ quận phu nhân Nguyễn Thị Ngọc Phượng thụy Từ Nhã pháp danh Pháp Hoa chi thần; Y phu Trấn Phủ Võ Trung hầu nguyên phối Nguyễn Thị Hoa thụy Từ Thuận Trinh Thục phu nhân pháp danh Giới Vận chi thần; Cựu doanh trấn thủ Chưởng doanh tặng Dực Vận Công Thần Đặc Tiến Khai Phủ Trụ Quốc Thượng Tướng Quân Cẩm Y Vệ Tả Quân Đô Đốc Phủ Chưởng Phủ Sự Trấn phủ Kính quận công Nguyễn công húy Phúc Thông thụy viết Trung Lượng phủ quân chi thần; Thần Nông thánh đế; Hậu Tắc tôn vương; Tiền hiền khai khẩn, Lê khai canh, Nguyễn khai canh, Phạm khai canh mông phong Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò Đoan Túc tôn thần; Long Hồ dinh Xá Sai ty Hồ quý công chi thần; Chánh quản Cơ Huỳnh Tài hầu chi thần; Phó quản Cơ Lê Đức Thành chi thần; Tiền quân tiền tiệp Cơ Lê Đức Thành chi thần; Chánh quản cơ Nguyễn Văn Mông quý công chi thần; Suất đội quyền sung hiệp quản Huỳnh Dực quý công chi vị; Khai khoa Tú tài Nguyễn Văn Đạt quý công chi vị; Công đức Nguyễn Hy trưởng khoa sài ý liệt vị quý công; Hậu khẩn Huỳnh, Trương, Hồ, Trần, Cao trứ phong vi Dực Bảo Trung Hưng Linh Phò tôn thần; Lê, Nguyễn, Phạm, Huỳnh, Trương, Hồ, Trần, Đoàn, Mai, Cao, Lưu, Bùi, Phan, Đặng thủy tổ liệt vị; Đội trưởng Lê Văn Bá quý công chi vị; Thừa biện Nguyễn Văn Tự quý công chi vị; Phong tá hưu trí Huỳnh Ngọc Phan quý công chi vị.

Hằng năm, làng Mỹ Á có hai lễ tế lớn là Thu tế tại đình làng và Đông chí tại nhà thờ Thập nhị tôn phái. Bên cạnh đó, đầu năm làng cũng tổ chức lễ Khai hạ vào sáng mồng Hai Tết để cầu cho một năm mùa màng bội thu. Trong dịp này, làng làm lễ tống ôn dịch với ước vọng tiêu trừ dịch bệnh. Họ thành tâm cầu khấn các vị thần: Đương Cảnh Thành Hoàng đại vương; Thái tuế chí đức tôn thần; Kim niên hành khiển hành binh chi thần; Đương Cảnh Thổ địa chánh thần; Ngũ phương chưởng ôn dịch lệ thần quan; Ngũ đạo hành binh chi thần; Hành hàn hành nhiệt hành ẩu hành thổ hành tả hành tiết hành bệnh hành tai hành ách thần quan. Sau lễ Khai hạ, người dân mới được xuống ruộng (hạ điền) để làm công việc đồng áng. Hạ điền ở đình làng để.

Lễ hội lớn nhất của làng Mỹ Á là lễ hội đua thuyền. Đây chính là lễ xuống mùa của ngư dân. Trước đây, lễ hội được tổ chức vào rằm tháng 4 âm lịch, là thời điểm biển đã êm, không còn sóng to gió lớn. Trong phần lễ, ngư dân dâng cúng các phẩm vật và tổ chức hò đưa linh để cầu một năm đánh bắt được nhiều tôm cá, thuận buồm xuôi gió. Đua thuyền gồm có 3 đội là 3 vạn: vạn xăm, vạn dạ và vạn rùng. Hiện nay, lễ hội đua thuyền được tổ chức 5 năm hoặc 3 năm một lần vào tháng 6 âm lịch và có 4 đội đua.

Cũng như nhiều làng xã khác ở xứ Đàng Trong, làng Mỹ Á ra đời và phát triển cùng với công cuộc Nam tiến mở mang bờ cõi của Đại Việt. Trải qua quá trình khai phá lập làng, từ những họ khai canh, khai khẩn ban đầu đến nay làng đã có 47 dòng họ cùng nhau chung sống và lấy hai nghề nông - ngư làm sinh kế chính.

M.V.Đ
(TCSH43SDB/12-2021)


---------------------------------
1. “Tiểu trường sa” là dải cát ven biển từ cửa Thuận An kéo dài đến cửa Tư Hiền.
2. Huỳnh Công Bá (2010), “Một số kết quả nghiên cứu về loại  hình khẩn hoang vùng Thuận - Quảng”, trong Thuận Hóa - Phú Xuân Thừa Thiên Huế 700 năm hình thành và phát triển, Nxb. Chính trị Quốc gia, Hà Nội, tr. 257.
3. 阮族譜系 (Nguyễn tộc phổ hệ), lưu tại Nhà thờ họ Nguyễn, làng Mỹ Á, xã Giang Hải, huyện Phú Lộc, tỉnh Thừa Thiên Huế.



 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • BĂNG SƠN           Tuỳ bútDòng sông Hồng Hà Nội là nguồn sữa phù sa và là con đường cho tre nứa cùng lâm sản từ ngược về xuôi. Dòng sông Cấm Hải Phòng là sông cần lao lam lũ, hối hả nhịp tầu bè. Dòng sông Sài Gòn của thành phố Hồ Chí Minh là váng dầu ngũ sắc, là bóng cần cẩu nặng nề, là những chuyến vào ra tấp nập... Có lẽ chỉ có một dòng sông thơ và mộng, sông nghệ thuật và thi ca, sông cho thuyền bềnh bồng dào dạt, sông của trăng và gió, của hương thơm loài cỏ thạch xương bồ làm mê mệt khách trăm phương, đó là sông Hương xứ Huế, là dòng Hương Giang đất cố đô mấy trăm năm, nhưng tuổi sông thì không ai đếm được.

  • PHAN THUẬN THẢO                Chiều chiều trước bến Vân Lâu                Ai ngồi, ai câu, ai sầu, ai thảm,                Ai thương, ai cảm, ai nhớ, ai trông.                Thuyền ai thấp thoáng bên sông,                Đưa câu Mái đẩy chạnh lòng nước non.                                              (Ưng Bình Thúc Giạ)

  • LÃNG HIỂN XUÂNChẳng hiểu sao, từ thuở còn thơ ấu, tôi đã có một cảm nhận thật mơ hồ nhưng cũng thật xác tín rằng: Chùa chính là nơi trú ngụ của những ông Bụt hay bà Tiên và khi nào gặp khó khăn hay đau khổ ta cứ đến đó thì thế nào cũng sẽ được giải toả hay cứu giúp!

  • BÙI MINH ĐỨCNói đến trang phục của các Cụ chúng ta ngày xưa là phải nhắc đến cái búi tó và cái khăn vấn bất di bất dịch trên đầu các Cụ. Các Cụ thường để tóc dài và vấn tóc thành một lọn nhỏ sau ót trông như cái củ kiệu nên đã được dân chúng đương thời gọi là “búi tó củ kiệu”. Ngoài cái áo lương dài, cái dù đen và đôi guốc gỗ, mỗi khi ra đường là các Cụ lại bối tóc hình củ kiệu và vấn dải khăn quanh trên đầu, một trang phục mà các cụ cho là đứng đắn nghiêm trang của một người đàn ông biết tôn trọng lễ nghĩa. Trang phục đó là hình ảnh đặc trưng của người đàn ông xứ ta mãi cho đến đầu thế kỷ thứ 20 mới bắt đầu có nhiều biến cải sâu đậm

  • MAO THUỶ THANH (*)Tiếng hát và du thuyền trên sông Hương là nét đẹp kỳ thú của xứ Huế. Trên sông Hương có hai chiếc cầu bắc ngang: cầu Phú Xuân và cầu Trường Tiền nhưng trước đây người dân Huế thường có thói quen đi đò ngang. Bến đò ở dưới gốc cây bồ đề cổ thụ, nằm đối diện với trường Đại học Sư phạm Huế. Một hôm, tôi và nữ giáo sư Trung Quốc thử ngồi đò sang ngang một chuyến. Trên đò đã có mấy người; thấy chúng tôi bước xuống cô lái đò áp đò sát bến, mời chúng tôi lên đò.

  • VÕ NGỌC LANBuổi chiều, ngồi trên bến đò Quảng Lợi chờ đò qua phá Tam Giang, tôi nghe trong hư vô chiều bao lời ru của gió. Lâu lắm rồi, tôi mới lại được chờ đò. Khác chăng, trong cảm nhận tôi lại thấy bờ cát bên kia phá giờ như có vẻ gần hơn, rõ ràng hơn.

  • HỒNG NHUTôi vẫn trộm nghĩ rằng: Tạo hóa sinh ra mọi thứ: đất, nước, cây cỏ chim muông... và con người. Con người có sau tất cả những thứ trên. Vì vậy cỏ cây, đất nước... là tiền bối của con người. Con người ngoài thờ kính tổ tiên ông bà cha mẹ, những anh hùng liệt sĩ đã mất... còn thờ kính Thần Đất, Thần Nước, Thần Đá, Thần Cây...là phải đạo làm người lắm, là không có gì mê tín cả, cho dù là con người hiện đại, con người theo chủ nghĩa vô thần đi nữa! Chừng nào trên trái đất còn con người, chừng đó còn có các vị thần. Các vị vô hình nhưng không vô ảnh và cái chắc là không vô tâm. Vì sao vậy? Vì các vị sống trong tâm linh của con người, mà con người thì rõ ràng không ai lại tự nhận mình là vô tâm cả.

  • MẠNH HÀTôi không sinh ra ở Huế nhưng đã có đôi lần đến Huế, khác với Hà Nội hay Thành phố Hồ Chí Minh, Huế có nét trầm lắng, nhẹ nhàng, mỗi lần khi đến Huế tôi thường đi dạo trên cầu Trường Tiền, ngắm dòng Hương Giang về đêm, nghe tiếng ca Huế văng vẳng trên những chiếc thuyền rồng du lịch thật ấn tượng. Cho đến nay đã có biết bao bài thơ, bài hát viết về Huế thật lạ kỳ càng nghe càng ngấm và càng say: Huế đẹp, Huế thơ luôn mời gọi du khách.

  • VÕ NGỌC LANNgười ta thường nói nhiều về phố cổ Hội An, ít ai biết rằng ở Huế cũng có một khu phố cổ, ngày xưa thương là một thương cảng sầm uất của kinh kỳ. Đó là phố cổ Bao Vinh. Khu phố này cách kinh thành Huế chừng vài ba cây số, nằm bên con sông chảy ra biển Thuận An. Đây là nơi ghe, thuyền trong Nam, ngoài Bắc thường tụ hội lại, từ cửa Thuận An lên, chở theo đủ thứ hàng hoá biến Bao Vinh thành một thương cảng sầm uất vì bạn hàng khắp các chợ trong tỉnh Thừa Thiên đều tập trung về đây mua bán rộn ràng.

  • NGUYỄN XUÂN HOATrước khi quần thể di tích cố đô Huế được công nhận là di sản văn hoá thế giới, thành phố Huế đã được nhiều người nhìn nhận là một mẫu mực về kiến trúc cảnh quan của Việt Nam, và cao hơn nữa - là “một kiệt tác bài thơ kiến trúc đô thị” như nhận định của ông Amadou Mahtar  M”Bow - nguyên Tổng Giám đốc UNESCO trong lời kêu gọi tháng 11-1981.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU                       Bút kýXứ Thuận Hóa nhìn xa ngoài hai ngàn năm trước, khi người Việt cổ từ đất Tổ Phong Châu tiến xuống phía Nam, hay cận lại gần hơn bảy trăm năm kể từ ngày vua Trần Anh Tông cho em gái là Huyền Trân Công chúa sang xứ Chàm làm dâu; cái buổi đầu ở cương vực Ô Châu ác địa này, người Việt dốc sức tận lực khai sông mở núi, đào giếng cày ruộng, trồng lúa tạo vườn, dựng nhà xây đình, cắm cây nêu trấn trị hung khí rồi thành lập làng xã.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCSông Hương, một dòng sông đẹp, sôi nổi với những ghềnh thác đầu nguồn, mềm mại quàng lấy thành phố như một dải lụa, hài hoà tuyệt diệu với thiên nhiên xinh đẹp và hệ thống thành quách, cung điện, lăng tẩm, đền chùa; với hàng trăm điệu hò, điệu lý; với những ngày hội vật, hội đua trải, đua ghe; với mảnh vườn và con người xứ Huế, là nguồn cảm hứng vô tận của người nghệ sĩ, thu hút sự say mê của nhiều khách phương xa. Không những là một dòng sông lịch sử, sông Hương còn là không gian văn hoá làm nẩy sinh những loại hình nghệ thuật, những hội hè đình đám, là không gian của thi ca, nhạc hoạ, là dòng chảy để văn hoá Huế luân lưu không ngừng.

  • TÔN NỮ  KHÁNH TRANG              Khi bàn về văn hoá ẩm thực, người ta thường chú trọng đến ẩm thực cung đình, hay dân gian, và chủ yếu đề cập đến sinh hoạt, vai trò, địa vị xã hội... hơn là nghĩ đến hệ ẩm thực liên quan đến đời sống lễ nghi.

  • TRƯƠNG THỊ  CÚC• Bắt nguồn từ những khe suối róc rách ở vùng núi đại ngàn A Lưới - Nam Đông giữa Trường Sơn hùng vỹ, ba nhánh sông Tả Trạch, Hữu Trạch và nguồn Bồ đã lần lượt hợp lưu tạo thành hệ thống sông Hương, chảy miên man từ vùng núi trung bình ở phía đông nam A Lưới, nam Nam Đông, băng qua những dãy núi đồi chập chùng ở Hương Thuỷ, Hương Trà, Phong Điền rồi xuôi về đồng bằng duyên hải, chảy vào phá Tam Giang để đổ nước ra biển Đông.

  • NGUYỄN KHẮC MAIỞ xứ Huế có những tên làng quê mà nghĩa của chúng vẫn còn là sự ám ảnh kiếm tìm giải thích, chắc chắn chúng phải có nghĩa cụ thể nào đó. Người xưa không bao giờ đặt tên một vùng đất mà chẳng có nghĩa gì cả cứ như là người Mã Lai họ đặt tên vùng đất kinh đô cũng lần ra cái nghĩa đó là “cửa sông bùn lầy” (Kua-la-lăm-pua). Những cái tên như Kim Long, An Hoà, Dương Xuân, Phú Tài, Phú Mậu thì những ai có chút hiểu biết chữ Hán đều có thể lần tìm ý nghĩa. Nhưng có những cái tên làng quê thật khó đoán được cái nghĩa của chúng.

  • BÙI MINH ĐỨC Ngày nay, hễ nói đến đường để nấu chè là ai ai ở Huế cũng nghĩ đến đường cát trắng, đến thứ đường bột trắng tinh đã được tinh lọc do các nhà máy đường tân tiến sản xuất. Có người cũng còn nhớ đến đường phèn để chưng với chanh ăn khi bị ho, hoặc đường tinh thể là thứ đường đặc biệt màu vàng dùng để uống với cà phê cho thêm phần đậm đà. Nhưng chẳng ai có thể nhắc đến chiếc bánh đường đen ở Huế của thuở nào.

  • NGUYỄN TIẾN VỞNKinh Dịch (Chu Dịch) là sách về sự biến đổi. Dịch, nói gọn lại là biến đổi. Tinh thần xuyên suốt của Kinh Dịch là quy luật chuyển dời, biến hoá của vạn vật trong cõi trời đất. Mọi vật, bất kể to lớn như vũ trụ, hay nhỏ nhoi như các nguyên tử, đều không bao giờ đứng yên. Mọi sự, từ chuyện người có thể biết đến chuyện chỉ trời đất biết, cũng vận động biến hoá khôn lường.

  • PHAN THUẬN AN            Dạ thưa xứ Huế bây giờ,Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương.                                              (Bùi Giáng)

  • NGUYỄN VĂN THỊNHCũng như trên cả nước, trước cách mạng tháng Tám, làng (tên gọi chữ Hán là xã), ở Thừa Thiên Huế là một đơn vị cơ bản trong tổ chức hành chính của các vương triều.

  • VÕ NGỌC LANNếu cuộc đời người là một trăm năm hay chỉ là sáu mươi năm theo vòng liên hoàn của năm giáp, thì thời gian tôi sống ở Huế không nhiều. Nhưng những năm tháng đẹp nhất của đời người, tôi đã trải qua ở đó. Nơi mà nhiều mùa mưa lê thê cứ như níu giữ lấy con người.