NGUYỄN QUANG HÀ
Nhân ngày giỗ nhà thơ Thanh Hải (12. 80 - 12.1994)
Nhà văn Tô Nhuận Vỹ và những hồi ức về nhà thơ Thanh Hải - Ảnh: voque.org
Tôi tìm đến với Thanh Hải hơi chậm. Mãi tận năm 1962, chúng tôi đi đón đoàn đại biểu của Mặt Trận Dân Tộc Giải phóng Miền Nam ra thăm Miền Bắc ở ga Bắc Giang mới được gặp anh đi trong đoàn đại biểu ấy.
Nhưng phải đến lúc Hà Nội đón các anh, và Thanh Hải đọc thơ, câu thơ đã đụng vào tâm can tôi, nối lòng tôi với lòng anh là câu thơ này:
"Xa nhau chỉ một mái chèo
Mà đi trăm núi vạn đèo đến đây"
(Tám năm nay mới gặp nhau)
Với tôi, đó là một trong những câu thơ hay nhất của cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà. Anh cũng còn một câu thơ viết về Bác rất giản dị, song thật xúc động:
"Càng nhìn càng lại ngẩn ngơ
Ôm hôn ảnh Bác mà ngờ Bác hôn"
(Cháu nhớ Bác Hồ)
Nghe nói, khi Thanh Hải được gặp Bác Hồ, Bác nói: "Nào cho chú Thanh Hải hôn Bác Hồ thật chứ không phải hôn ảnh Bác nữa". Bác cho Thanh Hải chụp riêng một tấm hình với Bác. Bác ôm chặt anh trong lòng như tình cha con. Thật vinh dự cho một nhà thơ có được những giây phút thiêng liêng như thế.
Sau này vào chiến trường Trị Thiên tôi được gặp anh lần đầu tiên ở Khu Ủy. Vừa thấy tôi, anh Trần Hoàn gọi rất to: "Thanh Hải, Quang Hà từ Huế lên đây này". Anh từ trong phòng riêng nhào ra ôm chầm lấy tôi. Thanh Hải mảnh mai, dáng thư sinh hiền lành, chất phác. Lúc ấy, tôi lại nghĩ trong lòng: "Con người viết câu thơ, "Xa nhau chỉ một mái chèo" là thế này đây”. Tôi yêu thơ anh rồi quý anh.
![]() |
Thơ Thanh Hải không nhiều. Năm nay Nhà xuất bản Văn Học in tuyển tập thơ anh. Ngoài số bài đã in, lần xuất bản có thêm trường ca: "Hành khúc người ở lại" và kịch thơ "Bình minh Thành Huế" bổ sung phần quan trọng cho thơ anh.
Có lẽ chính nhờ có vào chiến trường, nên tôi hiểu thêm thơ Thanh Hải. Đọc thơ anh, như được gặp lại cuộc sống hào hùng của một thời. Từ sự quằn quại của người mất nước đang tìm đường:
"Đất ta chúng cướp chúng cày
Nhà ta chúng phá chúng xây bốt đồn
Khóc không tan hết oán hờn
Van xin đâu phải con đường ta đi"
(Bài ca nghĩa quân)
Tôi đã gặp con người khát vọng độc lập tự do ấy trên một nẻo đường chiến khu nào đó. Hành trang và ý chí anh, chỉ vài nét chấm phá, mà sừng sững như một cột mốc trong ký ức.
"Gạo cùng ruột nghé hai vai
Anh đi chiến dịch mưa hoài chiến khu
Lá che phên gió vù vù
Không chăn con sốt tai ù từng cơn"
(Hành khúc người ở lại)
Dù làm việc gì dọc đường cách mạng, người chiến sĩ vẫn bừng lên nét hồn nhiên, dù cuộc sống lầm lụi:
"Trạm giao liên giữa lùm cây
Vào ra vướng áo rách tay là thường”
(Hành khúc người ở lại)
Không phải binh trạm trên đường trục tấp nập đâu. Đó là những điểm hẹn bất ngờ của đường dây xuống vùng sâu, khi thu mình ở lùm cây này, khi chuyển sang lùm cây khác giữa trảng cát mênh mông trong vùng địch kiểm soát, chỉ cần lộ dấu vết, lập tức bị truy lùng. Nay sống, mai chết là lẽ thường. Tôi nhớ người du kích Phú Vang, anh cũng chỉ chuyển từ lùm cây qua lùm cây kia, không ngờ trực thăng ập đến. Anh lập tức vùi mình trong cát. Trực thăng phát hiện bóng anh, bỗng mất, nó gọi một chiếc trực thăng khác tới, mang theo chiếc cào sắt, răng như răng bừa, thả xuống cào ngang cào dọc trảng cát ấy. Răng bừa đã lật được anh lên. Bắt anh lên trực thăng, đưa về căn cứ. Cái lùm cây của Thanh Hải cứ chênh vênh trong ký ức tôi.
Nếu không bám đất như Thanh Hải, chắc chắn sẽ không có những dòng thơ cảm động về những người mẹ thắc thỏm ngóng đứa con đi xa như thế này:
"Đêm nay biết về đâu
Con đi trong rét mướt...
Con đi mấy năm trời
Xanh lá rừng da mặt
Đường đêm thâm mí mắt
Thương con mẹ ngậm ngùi…
Những đêm súng đổ dồn
Càng không nằm yên giấc
(Con ơi con cứ đi)
Có gia đình như gia đình chị Ba ở Đồng Lâm, chồng, bố chồng, anh chị em trong nhà, rồi đến cả chị, cả thảy 7 người là liệt sĩ. Lần ấy tôi về thăm, gặp mẹ chồng chị Ba đang thái chuối làm dưa. Cụ đã ngoài 70 tuổi, sống âm thầm như cái bóng. Cái nền những câu thơ Thanh Hải tôi đã gặp như thế.
Sống lay lắt, đâu đã được yên. Cày làng, lập ấp, tù đày, tra khảo. Thanh Hải đã ghi lại được hình ảnh tang tóc ấy:
"Chúng nhe hàm răng
Những hàm răng vàng khé
Vung kìm nung đỏ chóe
Xông tới kẹp vào tay
Từng miếng thịt rứt bay
Chị lăn ra chết ngất"
(Chúng tôi không thể về)
Thấy được cái toàn cảnh ấy, mới hiểu được vì sao cầm súng lên đường, gian lao mấy cũng không thể có gì cản lại:
"Mồ hôi ướt đẫm mình như tắm
Trưa lựa gốc cây ăn củ sắn
Chiều nằm đá lạnh nhức xương"
(Hành khúc người ở lại)
Đây là hình ảnh những cô du kích bám trụ:
"Kể chi eng, chuyện thì dài
Ăn bờ ngủ bụi em nài chi mô
Cơm dù bữa đói bữa no
Hễ nghe có giặc em lo đi liền"
(O du kích Triệu Phong)
Cuộc hành trình đi tìm tự do thật kỳ lạ, bởi cuộc đọ sức giữa ta và địch không cân đối. Bom đạn thật không thể lường. Ta phải huy động tất cả những gì có thể có được để kháng chiến đến cùng. Dương Hương Ly viết: "mẹ đào hầm từ lúc tóc còn xanh. Nay mẹ đã phơ phơ đầu bạc". Thanh Hải cũng có cách nhìn quyết liệt của mình:
"Cứ đào sâu, cứ đào sâu
Dù trời xanh có nhỏ lại trên đầu
Dù cuộc sống thiếu từng giờ ánh sáng
Giặc cướp mặt đất, ta đào đất sâu làm cuộc sống"
(Bài ca từ một vùng địa đạo)
Riêng một xã Thủy Thanh của Thừa Thiên đào tới 3000 hầm bí mật cho bộ đội ở, xếp 3000 hầm bí mật ấy chồng lên nhau, chẳng là một công trình kiến trúc ngoạn mục của chiến tranh giải phóng đó sao.
Thanh Hải không đi tập kết. Anh ở lại. Thuộc diện cán bộ nằm vùng, cùng dân đấu tranh hợp pháp cho tuyển cử thống nhất đất nước. Nhưng Mỹ Ngụy đã phản bội, kéo dài chia cắt nước Việt Nam. Luật 10-59 kéo máy chém khắp Miền Nam, chặt đầu những người kháng chiến cũ. Theo thống kê, riêng Thừa Thiên - Huế, số Đảng viên cài lại tới 3000 người, nhưng lúc đồng khởi toàn Miền, số Đảng viên chỉ còn mấy chục người. Con số đã chứng minh sự khốc liệt đến cùng cực, trả giá cho tự do. Thanh Hải là một trong những người sống sót ấy. Anh được xếp vào hàng các cán bộ cách mạng "hạt gạo trên sàng". Người dấn thân, đã để lại dấu vết trong thơ anh từ những chi tiết rất nhỏ của cuộc sống:
"Gà gáy hai lần đến trạm xa
Trao xong hỏa tốc lại lui nhà
Dọc đường kiếm ít măng môn vót
Xem bẫy may ra có chú gà"
(Đi hỏa tốc)
Đến những khúc ca hào hùng, thơ Thanh Hải đã như cất cánh:
"Mộ anh trên đồi cao
Hoa hồng nở và nở
Hương thơm bay và bay
Mắt diều không dám ngó"
(Mộ anh hoa nở)
Có thể gọi đó là lời hát tiên tri về chiến thắng ngay trong lúc cách mạng đang tắm trong bể máu.
Xuyên suốt dòng thơ Thanh Hải, ở đâu ta cũng thấy chứa chan tình cảm như con người anh. Anh hết sức cảm thông với những người vợ xa chồng, mong ngày xum họp:
"Gục vào anh em khóc
Năm năm rồi anh ơi
Ghì anh em ôm chặt
Muốn nói bao nhiêu lời"
(Vượt tuyến)
Lúc nào cũng thấy ở anh nỗi đau đáu nhớ quê hương:
"Ba mươi năm ra đi
vẫn nhớ về quê mẹ
Từ một múi dưa khế
Đến một trách tôm kho
Bưởi thanh trà còn mô
Mẹ vô tù mấy lượt?"
(Hát về Huế yêu thương)
Sống với Thanh Hải, anh rất ít nói chuyện về thơ văn, thường ngồi với nhau là kể chuyện quê hương. Có lúc mắt anh đờ đi vì những nỗi nhớ âm thầm. Điều đó có thể lý giải vì sao khi giải phóng Huế, tìm được chỗ ở ổn định, anh bàn ngay với chị Tâm, vợ anh đón ông thân lên ở cùng mình. Anh chị cố gắng chăm sóc ông bằng tất cả những gì có thể như để bù lại những năm tháng xa cách.
Khi trọng bệnh, phải nằm lại bệnh viện, tôi được cơ quan cử chạy thuốc thang cho anh. Mỗi lần ngồi bên Thanh Hải, anh cầm tay tôi, nói những kỷ niệm về cha, về vợ, có lúc anh rưng rưng nước mắt nghẹn lời. Nhất là khi cảm thấy cái chết đã đến gần, anh nhất định đòi đưa về nhà: "để mình sống thêm ít giờ phút với vợ con và gia đình".
Hôm dọn dẹp để trả phòng cho bệnh viện, tình cờ chị Tâm tìm được bài thơ anh viết tặng chị. Một bài thơ như ánh lửa bùng lên cuối trời, cái phút bùng sáng cuối cùng ấy, anh nghĩ tới vợ, như di chúc sáng trong:
"Ta làm con chim hót
Ta làm một cành hoa
Ta nhập trong hòa ca
Một nét trầm xao xuyến"
(Mùa xuân nho nhỏ)
![]() |
Bên lăng mộ nhà thơ Thanh Hải |
Bữa tiễn anh đến nơi an nghỉ cuối cùng, hoa rất nhiều, đắp đầy mộ. Anh Lương An quay qua nói với tôi: "Đúng là mồ anh hoa nở". Cho đến chết anh vẫn được bạn bè mến yêu như thế.
Trong dòng văn học cách mạng giải phóng Miền Nam, tiếng thơ Thanh Hải đã đóng góp một phần xứng đáng. Mỗi lần đọc lại thơ anh, có những câu, những chữ như nhật ký chiến trường. Thơ anh như người thư ký thời đại. Những ai, như chúng tôi, đã từng cầm súng ngày ấy đều thấy bóng dáng mình qua thơ anh. Cám ơn anh đã để lại một chút bóng dáng thời đại chúng tôi cho đời, nhất là trên đất Trị Thiên này.
Thơ anh, đúng như câu thơ anh nói về mình:
"Một mùa xuân nho nhỏ
Lặng lẽ dâng cho đời"
Lặng lẽ thơ Thanh Hải đáng yêu biết bao.
1994
N.Q.H
(TCSH70/12-1994)
HOÀNG NHƯ MAI - NGUYỄN VĂN HẤN Cùng với những tập quán cổ truyền ngày Tết dân tộc, từ cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, nhân dân ta đã có thêm một tập quán quý báu nữa: đọc thơ chúc Tết của Bác Hồ.
NGÔ MINHTôi đọc và để ý đến thơ Đông Hà khi chị còn là sinh viên khoa văn Trường Đại học Sư phạm Huế. Thế hệ này có rất nhiều nữ sinh làm thơ gây được sự chú ý của bạn đọc ở Huế và miền Trung như Lê Thị Mỹ Ý, Nguyễn Thanh Thảo, Huỳnh Diễm Diễm.v.v... Trong đó có ấn tượng đối với tôi hơn cả là thơ Đông Hà.
NGUYỄN ANH TUẤNKhông gian trữ tình không là một địa danh cụ thể. Mặc dù có một “thôn Vĩ” luôn hiện hữu hết sức thơ mộng trên toàn đồ trực diện thẩm mỹ của bài thơ, với những màu sắc, hình ảnh, đường nét:…
KHÁNH PHƯƠNGNhân cách văn hóa của nhà văn có thể được biểu hiện bằng những hành động, thái độ trong đời sống, nhưng quan trọng hơn, nó chi phối nhân cách sáng tạo của nhà văn.
HỒNG DIỆUTrương Mỹ Dung đời Đường (Trung Quốc) có một bài thơ tình yêu không đề, được nhiều nhà thơ Việt Nam chú ý.
NGUYỄN KHOA BỘI LANMột hôm chú Văn tôi (Hải Triều Nguyễn Khoa Văn) đọc cho cả nhà nghe một bài thơ mà không nói của ai.
NGUYỄN QUANG HÀTôi nhớ sau thời gian luyện tập miệt mài, chuẩn bị lên đường chi viện cho miền Nam, trong lúc đang nơm nớp đoán già đoán non, không biết mình sẽ vào Tây Nguyên hay đi Nam Bộ thì đại đội trưởng đi họp về báo tin vui rằng chúng tôi được tăng viện cho chiến trường Bác Đô.
LÊ HUỲNH LÂM(Đọc tập truyện ngắn “Thõng tay vào chợ” của Bạch Lê Quang, NXB Thuận Hóa, 11/2009)
LÊ VŨ(Đọc tập thơ Nháp của Ngọc Tuyết - NXB Thanh niên 2009)
NGÔ MINHÐọc lại Chiếu Dời đô, tôi bỗng giật mình trước sự vĩ đại của một quyết sách. Từng câu từng chữ trong áng văn chương bất hủ này đều thể hiện thái độ vừa quyết đoán dứt khoát với một lý lẽ vững chắc, vừa là một lời kêu gọi sự đồng thuận của triều thần với lời lẽ rất khoan hòa, mềm mỏng.
LÊ HUỲNH LÂMThơ không thể tách rời đời sống con người. Điều đó đã được thời gian minh chứng. Từ lời hát ru của mẹ, những giọng hò trên miền sông nước,… đã đánh thức tình yêu thương trong mỗi chúng ta.
KHÁNH PHƯƠNGNgay từ thuở cùng Trần Mai Châu, Vũ Hoàng Địch, Vũ Hoàng Chương viết tuyên ngôn Tượng trưng, Trần Dần đã mặc nhiên khảng khái công bố quan niệm, thơ bỏ qua những biểu hiện đơn nghĩa của sự vật, sự kiện, đời sống, mà muốn dung hợp tất cả biểu hiện hiện thực trong cõi tương hợp của cảm giác, biến nó thành không gian rộng lớn tiếp biến kỳ ảo của những biểu tượng tiềm thức. Như vậy cũng có nghĩa, nhà thơ không được quyền sao chép ngay cả những cảm xúc dễ dãi của bản thân.
NGUYỄN CƯƠNGSư Bà Thích Nữ Diệu Không (tục danh Hồ Thị Hạnh) sinh năm 1905 viên tịch năm 1997 hưởng thọ 93 tuổi. Lúc sinh thời Sư Bà trụ trì tại Chùa Hồng Ân, một ngôi chùa nữ tu nổi tiếng ở TP Huế, đã một thời là trung tâm Phật giáo ở miền Nam.
HỒNG NHU (Đọc tập “Chuyện Huế” của Hồ Đăng Thanh Ngọc - NXB Thuận Hóa 2008)
NGUYỄN ĐÔNG NHẬTĐọc xong tập sách do họa sĩ Phan Ngọc Minh đưa mượn vào đầu tháng 6.2009(*), chợt nghĩ: Hẳn, đã và sẽ còn có nhiều bài viết về tác phẩm này.
NGUYỄN HỮU QUÝ (Mấy cảm nhận khi đọc Chết như thế nào của Nguyên Tường - NXB Thuận Hóa, 2009) Tôi mượn thuật ngữ chuyên ngành y học (Chăm sóc làm dịu=Palliative Care) để đặt tít cho bài viết của mình bởi Phạm Nguyên Tường là một bác sĩ điều trị bệnh ung thư. Tuy rằng, nhiều người biết đến cái tên Phạm Nguyên Tường với tư cách là nhà thơ trẻ, Chủ tịch Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế hơn là một Phạm Nguyên Tường đang bảo vệ luận án tiến sĩ y khoa.
LÊ THỊ HƯỜNGTìm trong trang viết là tập tiểu luận - phê bình thứ 3 của Hồ Thế Hà. Sau những ngày tháng miệt mài “Thức cùng trang văn” (viết chung với Lê Xuân Việt, được giải thưởng Cố đô 1993 - 1997), Hồ Thế Hà lại cần mẫn “tìm trong trang viết” như một trăn trở đầy trách nhiệm với nghề.
MAI VĂN HOANNguyễn Công Trứ từng làm tham tụng bộ lại, Thị lang bộ Hình, Thượng thư bộ Binh... Đương thời ông đã nổi tiếng là một vị tướng tài ba, một nhà Doanh điền kiệt xuất. Thế nhưng khi nói về mình ông chỉ tự hào có hai điều: Thứ nhất không ai "ngất ngưỡng" bằng ông; thứ hai không ai "đa tình" như ông. Nguyễn Công Trứ "ngất ngưỡng" đến mức "bụt cũng phải nực cười" vì đi vào chùa vẫn mang theo các cô đào.
SICOLE MOZETBà Nicole Mozet, giáo sư trường Paris VII, chuyên gia về Balzac và là người điều hành chính của các hội thảo về Balzac đã làm một loạt bài nói chuyện ở trường Đại học ngoại ngữ Hà Nội, trường Đại học sư phạm Hà Nội, Nhà xuất bản thế giới... Chúng tôi trích dịch một đoạn ngắn trong bản thảo một bài nói chuyện rất hay của bà. Lúc nói bà đã phát triển những ý sau đây dưới đầu đề: Thời gian và tiền bạc trong Eugénie Grandet, và đã gợi cho người nghe nhiều suy nghĩ về tác phẩm của Batzac, cả về một số tác phẩm của thế kỉ XX.
CAO HUY HÙNGLịch sử vốn có những ngẫu nhiên và những điều thần tình mà nhiều người trong chúng ta chưa hiểu rõ. Tỉ như: Thế giới có 2 bản Tuyên ngôn độc lập, đều có câu mở đầu giống nhau. Ngày tuyên bố tuyên ngôn trở thành ngày quốc khánh. Hai người soạn thảo Tuyên ngôn đều trở thành lãnh tụ của hai quốc gia và cả hai đều qua đời đúng vào ngày quốc khánh...