Lãng du tâm hồn - lãng du văn hoá

09:38 27/11/2008
HỒ THẾ HÀ   Trong cuộc đời mỗi con người, điều sung sướng nhất là được hiểu biết, khám phá và sáng tạo để ý nghĩa tồn sinh không ngừng được khẳng định và nâng lên những tầm cao mới. Theo đó, những thang bậc của nhận thức, nhân văn, của thành quả lao động lại biến thành những giá trị văn hoá vật thể và phi vật thể lấp lánh lời giải đáp.

Võ sư Nguyễn Văn Dũng

Ký ức lịch sử, văn minh của loài người chính là sự nối tiếp, làm đầy những hành trình văn hoá ấy về cả số lượng lẫn chất lượng, để trải qua thời gian, con người đến đó nhận về tất cả những âm vang của cuộc đời, của tình người dù chúng đã cách xa ta hằng bao thế kỷ, bao lớp trầm tích và hiển minh.
Người hạnh phúc là người được sống trong từ trường văn hoá ấy qua từng bước lãng du. Người hạnh phúc gấp đôi là người ghi lại trên từng bước lãng du ấy những nỗi niềm, tâm trạng và gắn cho nó những giá trị, những quan niệm, những tư tưởng bổ sung và chuyển đến cho những người khác không có diễm phúc “tận mục sở thị” để họ được yêu thương, xúc động, suy ngẫm và tự hào như mình. Và vinh dự ấy, có lẽ không ai bằng nhà văn, bởi họ đã cần mẫn, đam mê như người ghi cổ sử, người mắc nợ với tiền nhân, bất kể gian lao và hệ luỵ để kể cho ta bằng con chữ trên từng trang viết dạt dào tình yêu và sự sống chân thành.

Một trong những người hạnh phúc như thế là nhà viết ký Nguyễn Văn Dũng mà tôi gọi là người lãng du tâm hồn, lãng du văn hoá, lãng du ký. Nguyễn Văn Dũng là một võ sư danh tiếng, lại là một nhà giáo dạy văn chương với hành trang đầy ắp những tri thức và kiến thức, đã giúp anh trở thành người cầm bút đích thực - tuy muộn mằn. Muộn nhưng không chậm và không hề làm ta ngạc nhiên, bởi tất cả những tố chất trên tiềm tàng trong anh suốt cuộc đời như một niềm ấp ủ, không ghi lại trên giấy không đành, trước hết, để trả nợ cho tâm hồn đa cảm của mình, sau đấy, chia sẻ với người thân và ân nghĩa quanh đời.

Tôi may mắn được làm một trong những người đầu tiên đọc tập bút ký Linh sơn mây trắng của anh với lòng ngưỡng mộ và yêu quí. Và, tôi ghi những dòng này như một tâm sự và gửi gắm một lòng tin: tâm sự cùng anh qua trang viết và gửi gắm lòng tin cũng qua trang viết, từ bây giờ và cả tương lai. 27 bút ký trong tập là kết quả của hành trình anh thâm nhập thực tế, ghi chép, nghiền ngẫm, bình giá với tư cách người ham biết, ham bình, ham đặt vấn đề và cuối cùng là người ham chơi. Chỉ có sự say sưa, ham thích ấy mới chịu soi chiếu, bình luận, so sánh, đối lập trong từng sự kiện, vấn đề, từng con người, cảnh vật... một cách nhiệt thành như thế - từ điểm nhìn và tâm thế của con người hiện tại. Ở đó, anh nhận ra “nụ cười của cái tâm an lạc” để “lòng ta cũng tràn ngập ánh sáng của tình yêu thương con người, cuộc sống, muôn loài, cỏ cây hoa lá” (Theo đoàn hành hương đất Phật). Cái tâm ấy từ quê hương đi đến xứ người và trở lại quê hương mình là sự tích hợp những hiểu biết, để đối sánh, để thành “nội ngoại công” cho những điều đồng nghĩa với ước mơ về “một cuộc sống đẹp hơn, phong phú hơn, đáng sống hơn” (Đường về Thiếu Lâm Tự). Vậy là đã rõ, Nguyễn Văn Dũng không xa rời thực tế, không viển vông, không làm dáng mà là người muốn hiểu biết, muốn làm giàu kinh nghiệm sống của mình để thoả mãn nhận thức cá nhân, và qua đó, may ra để hiểu người, hiểu đời.

Đến Tây Tạng, anh thấy được “Dưới sức nặng của cuộc cách mạng văn hoá, của kinh tế thị trường, của công cuộc công nghiệp hoá - hiện đại hoá, không biết bấy giờ Tây Tạng có còn là Tây Tạng nữa không?”. Không riêng gì Tây Tạng mà những nơi anh qua: Nhật Bản, Ấn Độ, Trung Hoa, Pháp, Nepal, Đức, Hy Lạp, Ý, Mỹ, Ai Cập... đều nảy sinh trong anh những câu hỏi riêng. Và có câu, anh tự trả lời; có câu hỏi, còn bỏ ngỏ... Nhìn Vạn lý Trường thành, anh bảo đó là kỳ công của một “dân tộc có tinh thần trào lộng nhất thế giới”, nó “thể hiện ý chí độc lập dân tộc, phát triển và cường thịnh của đất nước Trung Hoa vĩ đại” (Ngẩn ngơ Vạn lý Trường Thành). Không biết có đúng không? Còn với Paris - Ville des Lumières, anh nhớ về cậu bé Anatole với “đôi chân sáo, cặp sách trên lưng, ngẩn ngơ nhìn lá vàng rơi trên vai những pho tượng trắng” (Mùa thu Paris).

Trong nhiều bút ký hay của tập như: Giai điệu Praha, Thành phố mang tên nữ thần Athéna, Paris mùa thu trở lại, Nồng ấm Cali, Một thoáng New York, Linh sơn mây trắng, Kim Tự Tháp hay là giọt lệ thiên thu..., tôi thích nhất bút ký Bình minh trên sông Hằng, bởi nó nói được cái hiện thực - triết lý của con người trong quan hệ với thiên nhiên, vũ trụ. Họ “Ước mong khi chết được hoà thân vào sông Hằng”, “Cuộc đời của mỗi người Ấn gắn liền với sông Hằng. Mỗi ngày, người ta tắm gội, nô đùa, cầu nguyện, hướng về... qua đó, mọi chướng ngại, cách li giữa con người với thần linh được cởi bỏ, và con người cảm thấy thanh thản, tự do, an lạc”. Đến Praha, thành phố của trăm tháp vàng, đẹp như tranh, là Di sản Văn hoá Thế giới..., tác giả lại nghĩ về những điều muôn thuở  “Cầu cho niềm vui đến với mọi người, cầu cho nhân loại hết chiến tranh” (Giai điệu Praha).

Một đặc điểm tổng thể của ký là tôn trọng sự thật. Là loại hình văn học nằm ở đường biên giữa báo chí và văn học, và tuỳ từng tiểu loại như: tuỳ bút, bút ký, ký sự... mà mỗi loại có một đặc trưng chi tiết riêng. Tuy vậy, nó cũng dành một khoảng nhỏ cho sự lãng du của tâm hồn nghệ sĩ để tô điểm thêm sắc màu, âm thanh, hương thơm cho cảnh vật. Khi ấy, cảnh sẽ sinh động hơn, tình sẽ da diết hơn, sự vật sẽ có hồn hơn... Ký của Nguyễn Văn Dũng có thể gọi là bút ký, pha một ít tuỳ bút và đặc biệt rất gần với du ký - thường ghi lại cảm nghĩ, bình luận của người du lãm về những điều mắt thấy tai nghe, đầu ngẫm suy, tim rung động về những gì mình còn trăn trở, băn khoăn, thương cảm... Nguyễn Văn Dũng có thế mạnh ở việc huy động nhiều vốn kiến thức: sử học, địa lý học, nhân chủng học, xã hội học, sinh học, tôn giáo, cả kiến trúc... để bình luận, trần thuật từng vấn đề ở ngôi thứ nhất, làm cho các trang ký của anh bộn bề chi tiết, sự kiện, cảnh trạng..., lại được chứa đựng bởi giọng văn giàu chất trữ tình, biểu cảm trực tiếp. Vì vậy, chúng có khả năng trò chuyện, tâm tình, gắn kết với người đọc. Các bút ký: Thành phố hoa mẫu đơn, Nhớ con sông quê nhà, Mặt trời trên đỉnh Phú Sĩ, Thành phố không đêm, Thành phố xanh màu ngọc bích... đều được miêu tả bằng giọng văn mượt mà, gợi cảm. Đó chính là cách làm cho ký dễ đi vào lòng người: “Tôi yêu Trung Quốc bởi vì tôi mê Đường thi - những trang thơ Đường xanh ngát cỏ cây, lóng lánh ánh trăng và mong manh sương khói” (Thành phố không đêm), “Giã biệt sông Seine . Giã biệt vườn mộng mơ. Giã biệt... Từ ngày mai, Paris đã là kỷ niệm để tôi nhớ về. Từ ngày mai, tôi đã có thể hỏi Người: “ Paris có gì lạ không em?” (Mùa thu Paris), “Chao ôi, những đoá hồng tươi thắm thế cần chi phải nói lời tỏ tình. Mong sao những cánh hoa kia dù có héo tàn đi trong đôi ba ngày, nhưng tình yêu của họ thì mãi mãi bền lâu cho đến mai sau” ( Gottingen - Thành phố của tri thức và tình yêu), “Không biết mỗi ngày đi qua, mặt trời có lưu lại gì trên dòng sông cứ chảy hoài về biển. Bên tê bờ Đông là ngút ngàn bãi cát vàng hươm. Thấp thoáng sau mênh mông vàng cát là hàng cây xanh thẫm một màu” (Bình minh trên sông Hằng).

Nhiều, rất nhiều những đoạn văn tả cảnh hay và trữ tình như thế. Nhờ những trang ký này mà thời gian - không gian ở đây được hiện về đan xen nhiều kiểu, nhiều chiều, nhiều miền, cả quá khứ - hiện tại, và trong một ý nghĩa nhân bản, tích cực, có cả chiều của mơ ước tương lai. Tình của tác giả trải rộng trên từng bước chân qua, từng cảnh ngộ, sông nước mây trời. Nhưng như ta đã biết, cái còn lại của ký vẫn là cấu tứ và tư tưởng. Tính thuyết phục của ký là tài năng quan sát, khám phá, đề xuất những vấn đề có tính thời sự - thế sự hoặc những khía cạnh vi tế của tâm hồn. Vậy giá trị hàng đầu của nó là giá trị nhận thức. Công bằng mà nói, bút ký, du ký của Nguyễn Văn Dũng đáp ứng được căn bản yêu cầu đó. Thời gian anh đi và viết trải dài theo năm tháng; không gian phản ánh mở rộng ra nhiều miền; có nơi, anh đến nhiều lần, mỗi lần là một cảm nhận mới; lần sau viết chắc và sâu  hơn lần trước. Đó cũng là điều đương nhiên khi anh không thụ động, lặp lại chính mình, không dễ dãi trong quan sát và bình luận.

Tuy vậy, cũng cần thấy một điểm chưa trọn vẹn của tác giả. Ở chỗ, anh đưa vào ký cùng lúc nhiều sự việc, nhiều tâm sự, làm cho loãng không khí, khó tập trung xoáy sâu vào từng cấu tứ để bật lên những vấn đề trọng tâm của suy tưởng, triết luận. Ký là ghi nhiều, quan sát nhiều nhưng cần tập trung dồn nén lại trong một chủ đề thì, khi ấy tính nhức nhối của trí tuệ, tính lây lan  của tình cảm sẽ hiện ra sắc nét, hấp dẫn. Hơn nữa, ham ghi và kể, ký dễ rơi vào dạng bộn bề của báo chí. Phải ưu tiên cho bình và luận, tạo những phức điệu, phức cảm, tránh sự lặp lại trong cách phản ánh, giọng điệu và cách viết. Phải ưu tiên cho những chi tiết trung tâm, những tâm trạng điển hình, những lát cắt bừng sáng của hiện thực. Một số bút ký của Nguyễn Văn Dũng còn rơi vào tình trạng này.

Như tôi đã nói ở trên, qua bài viết này, tôi muốn ghi lại những dòng tâm sự và tin yêu. Từ cái nền và con đường anh lựa chọn: bằng thể ký, với những gì anh đạt được qua Linh sơn mây trắng - tập bút ký đầu tay này, đủ cơ sở để ta tin yêu và hy vọng con đường đi bền bỉ và ngoạn mục của anh trong tương lai - ở những tập ký tiếp theo.
Nguyễn Văn Dũng là cây viết ký khẳng định được ngòi bút của mình ngay từ những trang viết đầu, bởi ở anh, có một vốn văn hoá đã chín, ngôn từ đã chọn lọc và cảm xúc thừa nhân ái chân thành. Người đọc sẽ cùng anh dõi theo những nỗi niềm sơn thuỷ và hoài niệm mây trời để được giàu có hơn lên trong nhận thức và rung cảm qua từng chặng hành trình để cùng lãng du tâm hồn, lãng du văn hoá.
              
Huế, đêm 22.9.2005
               H.T.H

(nguồn: TCSH số 205 - 03 - 2006)

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)

  • LÊ HUỲNH LÂMDạo này, thỉnh thoảng tôi nhận được tin nhắn “nhìn đời hiu quạnh”, mà theo lời thầy Chạy đó là câu của anh Định Giang ở Vỹ Dạ mỗi khi ngồi nhâm nhi. Khi mắc việc thì thôi, còn rảnh rang thì tôi đến ngồi lai rai vài ly bia với thầy Chạy và nhìn cổ thành hắt hiu, hoặc nhìn cội bồ đề đơn độc, nhìn một góc phố chiều nguội nắng hay nhìn người qua kẻ lại,… tất cả là để ngắm nhìn cõi lòng đang tan tác.

  • THU NGUYỆTLTS: Tập truyện Cánh đồng bất tận của nhà văn Nguyễn Ngọc Tư được giới chuyên môn đánh giá cao như một hiện tượng văn học trong thời gian gần đây. Giữa lúc đông đảo bạn đọc đang hứng vị với hiện tượng này thì có một hiện tượng khác “ngược chiều” đã gây sốc dư luận.Để bạn đọc Sông Hương có thêm thông tin, chúng tôi xin trích đăng một số ý kiến sau đây.

  • HIỀN LƯƠNGVậy là Nguyễn Ngọc Tư sẽ bị kiểm điểm thật. Cầm tờ biên bản của Ban Tuyên giáo tỉnh Cà Mau trên tay, trong tôi trào dâng nhiều cảm xúc: giận, thương, và sau rốt là buồn...

  • BÙI VIỆT THẮNGTôi có theo dõi “vụ việc Nguyễn Ngọc Tư” đăng tải trên báo Tuổi trẻ (các số 79, 80, và 81 tháng 4 năm 2006) thấy các ý kiến khen chê thật ngược chiều, rôm rả và quyết liệt. Kể ra không có gì lạ trong thời đại thông tin mọi người đều có quyền cập nhật thời sự, nhất là trong lĩnh vực văn chương vốn rất nhạy cảm.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ“Người kinh đô cũ” (NKĐC - NXB Hội Nhà văn, 2004) là tác phẩm thứ 14 của nhà văn Hà Khánh Linh, cũng là tác phẩm văn học dày dặn nhất trong số tác phẩm văn học của các nhà văn ở Thừa Thiên - Huế sáng tác trong khoảng 20 năm gần đây.

  • TÔ VĨNH HÀNếu có thể có một miền thơ để mà nhớ mong, khắc khoải; tôi tin mình đã tìm được rồi, khi đọc Mưa Kim Cương của nhà thơ Đông Hà (Nxb Thuận Hoá, Huế, tháng 11.2005). Sợi dây mảnh mục như các khớp xương đan chằng, xéo buốt, chơi vơi; được giăng giữa hai bờ lở xói của cuộc đời. Trên cao là “hạt” kim cương thô ráp và gan lỳ hơn cả là đá nữa, nhưng lại giống với thân hình thần Vệ Nữ đang rơi, đang rơi, nhọn sắc, dữ dằn... Minh hoạ ở trang bìa xanh và sâu thẳm như những trang thơ.

  • TRẦN THANH HÀLGT: Có thể nói rằng, “Tiểu thuyết và tiểu luận về tiểu thuyết của Milan Kundera được xem như là một trong những hiện tượng độc đáo đáng được chú ý trong văn học Châu Âu hiện đại”. Mỗi cuốn tiểu thuyết cô đọng của nhà văn, mang lại cho độc giả một cái nhìn độc đáo về thế giới hiện đại và vị trí con người trong đó, một thứ triết học riêng về cuộc sống và mối quan hệ liên cá nhân, “các chủ đề sắc sảo và các tính cách con người sinh động được kết hợp với những suy tư về các đề tài triết học và hiện sinh mang tính toàn cầu”.

  • HOÀNG VĂN Đọc Hoang thai ta có thể hình dung ra xã hội Ba Lan đương đại và những vấn đề nẩy sinh trong xã hội này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊGặp nhà văn - dịch giả Đoàn Tử Huyến - một người “chơi” sách có hạng ở đất Hà Thành - tại nhà sách lớn của Trung tâm văn hoá ngôn ngữ Đông Tây mới khai trương trên khu Cầu Giấy, trước ngày hội thảo về tiểu thuyết “Mẫu Thượng ngàn” của Nguyễn Xuân Khánh, tôi hỏi: “Có đúng là ông đã nói trên một tờ báo rằng “Một tác phẩm kiệt xuất như “Nghệ nhân và Margarita” (NNVM) mà chưa có một nhà phê bình Việt Nam nào sờ đến cả! “Đúng vậy không?” Đoàn Tử Huyến cười nhăn cả mũi: “Thì đúng vậy chứ sao!”

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Hoạ mi năm ngoái - Thơ Trần Kim Hoa, NXB Văn học, 2006)

  • LTS: Sông Hương vừa nhận được lá thư của ông Tế Lợi Nguyễn Văn Cừ gửi cho nhà nghiên cứu Phan Thuận An nhằm cung cấp lại bản gốc của bài thơ “Cầu ngói”. Xin nói thêm, ông Nguyễn Văn Cừ là con của ông Nguyễn Văn Lệ, tác giả bài thơ.Sông Hương xin đăng lá thư này để hầu mong rộng đường trao đổi.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc Ngày không ngờ - thơ Nguyễn Bình An, NXB Thuận Hóa 2007)

  • VĨNH NGUYÊN(Nhân xem tập thơ Nhật thực của Nhất Lâm, Nxb Thanh Niên, 2008)