Lâm Thị Mỹ Dạ với "Đề tặng một giấc mơ"

14:47 12/11/2009
LÊ THỊ MÂYĐề tặng một giấc mơ là tập thơ hay và buồn của Lâm Thị Mỹ Dạ. Tập thơ này được giải thưởng của UBTQLH các Hội Văn học Nghệ thuật Việt Nam năm 1998. Sau khi xóa bao cấp trong in ấn thơ, rất nhiều người có cơ hội tự in thơ, có khi là mỗi năm một tập. Lâm Thị Mỹ Dạ không ở trong diện ấy.

Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ - Ảnh: LVT

Ngoài các bài thơ, chùm thơ in rải rác trên các báo, cũng xem như gần nửa thập kỷ qua chị "im lặng". Có thể đây là một sự im lặng cần thiết, sau lần chị nhận giải thưởng thơ của Hội Nhà văn Việt Nam. Tập Bài thơ không năm tháng in năm 1983, nhận giải thưởng năm 1984. Quả thật, hiếm tác giả gặt hái được những thành công mỹ mãn như Lâm Thị Mỹ Dạ. Trong năm tập thơ đã in, có hai tập đoạt giải thưởng cao.

Mấy ai từ cuộc đời thực đi đến được giấc mơ? Cái đi không đến được ấy đã ầm ỉ dồn nén và bừng chói thành cảm xúc sáng tạo?. Có lẽ đây là một tâm thế thơ xuyên suót tập, tạo nên những hẫng hụt bâng quơ, những đớn đau vô cớ, những cô đơn lãng mạn, những hờn trách chỉ lòng mình soi thấy.

            Đêm qua em mơ gì?
            Tôi mơ thành chim
            Con chim trong mơ hót giọng nơi nào
            Con chim trong mơ như nàng tiên cá
                                    (Đề tặng một giấc mơ)

            Thôi cần chi, ta ném vào đáy thẳm
            Chén đời ta
            Xoáy lòng biển một vết thương
                                    (Với biển)

            Từ lâu rồi
            Em không còn là của anh
            Em vùi chôn tuổi trẻ của mình
            Trên tháng ngày khô cứng
            Đôi khi giật mình
            Xót một cơn mưa đã chết
                        (Nụ tầm xuân đã khác)

Có thể nói, từ tâm thế cảm xúc trên, Lâm Thị Mỹ Dạ làm mới cõi thơ của riêng chị. Một cõi thơ khác lạ với chính cả không gian thơ của bốn tập thơ chị đã có trước đó. Thực ra, trong thế giới thơ riêng ấy tác giả chỉ muốn khám phá và thổ lộ chính bản thân cái tôi của mình như là một đối tượng cảm xúc khách thể. Tôi thấy mình như bầu trời thấy mình qua dòng sông/ Mảnh vỡ các vì sao-triệu thiên thạch lao tung, rơi rụng/ ánh sáng biến thành màu đen/ Ánh sáng chết vạn năm sau mới thấy (Tôi thấy mình)

Có lẽ đây là một sự phân thân cần thiết chăng? Sự phân thân bao giờ cũng để đạt tới những luận đề triết lý đã được đúc rút, trải nghiệm có khi phải trả giá bằng chính sự thất bại đau đớn của bản thân. Ấn tượng thơ trong lòng độc giả, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ là giọng thơ đầy ắp ngọt ngào. Một sự ngọt ngào thánh thiện đến mức nếu tác giả đổi giọng thơ khác rất có thể vô tình sẽ đánh mất độc giả. Nói như thế không có nghĩa đấy là yếu tố trói buộc, hạn chế sự sáng tạo nghệ sĩ, chỉ một mực trung thành với bản thân, với những gì đã khuôn định sự thành công đã gặt hái trước đây.

Các bài thơ hay trong Đề tặng một giấc mơ, có thể kể: Quả thông trong vườn Pasternak, Không đề, Người mù cầm đèn. Nhưng ý thơ hay, câu thơ hay, khổ thơ hay lại gặp rất nhiều. Em là cây mận của em/ Bám vào đất đai thẳm sâu là nỗi buồn/ và trở xanh là lòng kiêu hãnh (Cây mận của em). Nếu biển đau, mong chi người chia sẻ/ Vết thương kia xin trả lại ta nào (Với biển). Tiếng khóc đàn sếu qua rồi/ Nhà thơ đứng lặng đầy vơi nỗi niềm (Tiếng khóc đàn sếu qua rồi). Mỗi chiếc thuyền khơi/ Trên bãi cát úp mình đợi chờ con nước/ Ước chi ta như ngươi/ Nỗi khát ra khơi còn có được (Trước Nha Trang). Làm một người đàn bà/ Người ta phải nhỏ bé/ Nhỏ bé tựa búp bê/ Mới dễ dàng hạnh phúc (Nhỏ bé tựa búp bê). Em chết trong nỗi buồn/ Chết như từng giọt sương/ Rơi không thành tiếng (Tặng nỗi buồn riêng).

Lâm Thị Mỹ Dạ ở chặng đường này chị mở rộng địa lý và cả không gian cảm xúc thơ mang đận dấu ấn văn hóa của những chuyến đi giao lưu thơ. Đây là một mặt nổi trội mới đáng ghi nhận. Chỉ tiếc những chuyến đi của chị chỉ dừng ở Liên Xô cũ của thập kỷ chín mươi.

            Và tôi
            Như một chiếc mầm
            Bật lên sau tuyết
            Ngơ ngấn nhìn nước Nga
            Nước Nga vừa xanh thì tôi vừa xa...
                                    (Nước Nga vừa xanh)

Gần đây nhiều người nói đến công nghệ thơ. Công nghệ thơ hay nghề thơ? Mọi thứ nghề trên thế gian âu phải giỏi nghề và phải say nghề mới hòng kiếm sống nổi. Nhưng có lẽ say nghề thơ có phần khác kiểu say của các nghề kiếm sống khác? Trong tâm thức say của nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ, cái say thơ của chị gợi một nỗi gì đó bay bổng hồn nhiên. Và cũng rất lạ. Cái buồn của chị cũng bay bỗng hồn nhiên gợi một nỗi mềm mại rất phụ nữ. Đến cái đau cũng vậy chăng?

            Cô đơn thành thói quen mẹ biết gì đau khổ
            Bao vết thương trái tim sẹo chai lỳ
            Tường là vậy tưởng là mình gan góc
            Nào đâu ngờ nước mắt cạn đêm nay
                                    (Viết về câu trả lời cho con)

Sự hồn nhiên bay bổng trong khoảnh khắc cảm xúc, thăng hoa dễ thường là yếu tố công nghệ thơ, hay nói nôm là nghề thơ gần như bị phủ nhận xóa bỏ. Đọc thơ của Lâm Thị Mỹ Dạ, cái bay bổng hồn nhiên kéo câu thơ, mạch thơ và tứ thơ đi rất nhẹ, không có dấu ấn của "nghề". Và hình như chính tác giả vô tình thụ động bám vào những âm điệu, vần điệu thơ đã gieo thành câu chữ trước trang giấy. Điều này cho ta hiểu tác giả trong cảm hứng thơ không hề chủ tâm dùng lợi thế "nghề" để tìm tòi cách tân thơ, theo kịp dòng thơ trẻ và hiện đại, để mình không bị độc giả bỏ rơi. Ở bài thơ Không đề, tứ thơ không mới nhưng đây là một bài thơ hay. Gieo vãi hy vọng, nhưng cái còn lại là sự cằn kiệt dễ là sự trả giá quá đắt trong đời người cũng như trong đời thơ. Trên cánh đồng của chính mình/ Tôi thu lượm bón chăm và gieo vãi/ Những hạt giống nhiệm mầu cất kỹ/ Ngỡ mùa sau thành cây trái vàng mơ/ Nhưng ngoảnh lại/ Giật mình/ Hoang vắng/ Bởi tôi đã gieo tôi cặn kiệt không ngờ (Không đề).

Cái nhiệm mầu ở đời thì vô cùng, nhưng cái tươi xanh của chính mình bao giờ cũng là những sự hữu hạn khôn lường. Tứ của bài thơ được tác giả nắm bắt từ cảm hứng với tâm thức trải nghiệm đời sống. Sự trải nghiệm này đi từ tác giả đến với độc giả tìm một sự tương đồng chứa đựng những cảm thông đời thường. Tứ thơ được vùi kín trong niềm rung động thảng thốt đầy lo âu. Có lẽ đây là bài thơ ít chữ, hàm ý thơ lại xoáy được sâu, như được viết từ một mạch thơ suông chảy không nhiều dụng tâm lao động thơ mà vẫn thành công.

Để có được một bài thơ hay đọng lại được trong lòng độc giả đã khó. Một tập thơ có được dăm bảy bài thơ hay càng khó hơn. Phải chăng những bài thơ hay về tứ trong dòng thơ truyền thống của ta không nhiều, không phải là sở trường mạnh của các thi nhân. Lâm Thị Mỹ Dạ với tập thơ Đề tặng một giấc mơ, chị đã mở ra một hướng thơ cho chính mình, như là một con đường khó, để mong gặt hái được những gì mình vừa mới gieo vãi.

L.T.M
(127/09-99)





 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • VÕ THỊ XUÂN HÀVào rằm tháng Giêng năm 2003 tại Văn Miếu - Quốc Tử Giám, Hà Nội, Ngày Thơ Việt Nam lần thứ nhất được tổ chức long trọng. Mở đầu bằng lễ kéo Lá cờ Thơ, rồi ngâm đọc bài thơ Nguyên tiêu của Hồ Chí Minh. Sau đó là các chương trình giao lưu thơ với công chúng, đọc những bài thơ hay nhất của đất nước, ngâm thơ, bình thơ v.v…

  • VÔNG VANGCó thể nói cùng với chiều dài lịch sử của vùng đất Thuận Hóa - Phú Xuân, không thể và không khi nào mà khi nói đến nơi đây người ta lại không nhắc đến Thơ. Bởi vì ngoài “nhiệm vụ” là một bức thông điệp giúp cho ta biết hơn về lịch sử, về con người, Thơ còn giúp ta hiểu hơn về chính nó, về một ký ức lãng đãng đang trôi qua từ thẳm sâu trong trí nhớ, trong cái thăng hoa luân chuyển của vũ trụ và của chính con người.

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc “Thơ của người cô độc” tập thơ của Tường Phong, NXB Thuận Hóa xuất bản)

  • TRẦN HỮU LỤCChân dung Huế (*) - tập bút ký nhân vật, là một trong 12 đầu sách liên kết giữa Tủ sách Nhớ Huế với NXB Trẻ.

  • BÍCH PHƯỢNG thực hiệnLTS: Trong dịp vào Huế thực hiện một số phim trong chương trình “Người của công chúng” (Đài Truyền hình Việt Nam), nhà báo Bích Phượng đã có dịp tìm hiểu tác phẩm, gặp gỡ trò chuyện với nhà văn Nguyễn Khắc Phê tại ngôi nhà vuờn xinh đẹp của ông trên đường Xuân Diệu. Ông đã trả lời một cách cởi mở và thẳng thắn những vấn đề đặt ra.

  • NGUYỄN PHÚC VĨNH BATrong cuốn “Hồ sơ văn hoá Mỹ”, nhà nghiên cứu Hữu Ngọc có giới thiệu một số nhà thơ cổ điển Mỹ như Walt Whitman, Edgar A. Poe, Henri W. Longfellow… Về Longfellow, ông Hữu Ngọc viết:“Nếu không đòi hỏi tâm lí và tư duy sâu sắc thì có thể tìm ở thơ Longfellow sự trong sáng, giản dị, cảm xúc nhẹ nhàng, bâng khuâng, hình ảnh duyên dáng và âm điệu du dương. Ông làm thơ về lịch sử và truyền thuyết, đất nước và thiên nhiên, ông ca ngợi tình thương, lòng tốt, chịu đựng cuộc đời.

  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.