Lâm Thị Mỹ Dạ, nước mắt lặn vào trong

15:06 30/10/2008
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

Gặp nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vài lần đầu, thấy chị luôn cười hiền dịu, quan tâm đến mọi người, lại xinh đẹp, trắng trẻo, nhiều người cứ tưởng nữ nhà thơ nổi tiếng này sống trong nhung lụa từ nhỏ. Hoàn toàn không phải vậy. Tuổi thơ của Mỹ Dạ là tuổi thơ đầy buồn đau và nước mắt. Dạ lúc nào cũng có cảm giác mình là đứa trẻ “tội lỗi”. Tôi là bạn học với Mỹ Dạ từ lúc ở cấp ba trường huyện, tôi hiểu rõ tất cả những điều ấy.
Mọi duyên cớ bắt đầu từ chuyện phân biệt lý lịch rất nặng nề một thời. Ba của Mỹ Dạ là ông Lâm Thanh, một người gốc Hoa từng tham gia Việt Minh ở huyện đội Lệ Thuỷ thời chống Pháp. Cuối  cuối năm 1949, ông đưa bố mẹ và cả nhà vô Sài Gòn làm ăn. Khi sắp xếp nơi ở cho bố mẹ yên ổn, năm 1954, ông ra đón mẹ con Mỹ Dạ. Ông đã mua vé cho cả ba người cùng đi, nhưng đến phút cuối cùng, thì bà Lý Thị  Đấu, mẹ Dạ, không đi vì không thể bỏ lại người mẹ già và đứa em gái bơ vơ. Mỹ Dạ là  tên gọi một kỷ niệm tình yêu nồng ấm của ông. Vô Sài Gòn ông Lâm Thanh vẫn làm ăn buôn bán đủ sống và tham gia giúp đỡ cách mạng, cho đến khi hai tai bị điếc không nghe được nữa mới thôi. Sau ngày giải phóng miền , những người cùng hoạt động nội thành đã xác nhận để ông Thanh được tặng “Bằng khen Chính phủ” vì đã có công lao với cách mạng thời chống Mỹ. Bằng khen do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Tất cả bốn đứa con ông ở Sài Gòn đều làm nghề dạy học... Và may mắn thay, nhờ đất nước thống nhất, ông đã gặp đứa con gái Lệ Thuỷ của mình. Ông càng bất ngờ và sung sướng khi biết đứa con, khi xa nó còn đỏ hỏn ấy, bây giờ đã trở thành nhà thơ nối tiếng của đất nước!

Thế mà, trong bao nhiêu năm, Lâm Thị Mỹ Dạ lại phải mang một lúc hai nỗi đau cực lớn: Tuổi thơ thiếu vắng tình thương của cha và là cháu nội của Đại địa chủ (ông nội Mỹ Dạ đang ở Sài Gòn nên chỉ bị tịch thu toàn bộ ruộng đất, nhà cửa), rồi con của một “kẻ đi Nam theo địch”. Vết đen lý lịch ấy thời đó được xã hội xếp vào loại nguy hiểm cần phải luôn cảnh giác, đề phòng. Đó là “vết nhơ” bị mọi người coi khinh, dè bỉu... Tuổi nhỏ, đi học hay đi chơi, Mỹ Dạ luôn bị trẻ con trong xóm, trong xã xa lánh, chúng coi Dạ như con hủi, không dám gần. Suốt ngày, Dạ chỉ  lui cui bên mẹ bán quán ở chợ Tuy Lộc. Những năm ấy Mỹ Dạ luôn ở trong tâm trạng hoang mang và buồn tủi. Mẹ của Dạ là người vùng An Cựu, Huế. Thuở nhỏ học tiểu học, bà có học ít tiếng Pháp. Thời trẻ, bà thường đến các đồn Pháp bán hàng cho bọn lính. Khi Đội cải cách về, nghe bà thường quen nói chêm ít tiếng Pháp, họ quy là “địch cài lại”, là gián điệp, người của CIA. Thời CCRĐ, bà cũng bị xếp vào diện  phải “đấu tố”. Nỗi đau ấy ám ảnh tới mức, 10 tuổi Mỹ Dạ đã làm cả tập thơ buồn 32 bài, chép trong cuốn vở học trò. Nhưng không biết chiến tranh, cuốn sổ ấy bị thất lạc. Dạ chỉ nhớ được mấy câu  trong bài thơ có tựa đề là  Dòng sông đen: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng / Hắt máu xuống dòng sông đen...

Không hiểu sao cái lớp cấp ba của tôi thời đó lại có nhiều đứa lý lịch xấu đến thế! Ngoài Mỹ Dạ ra còn có Đỗ Hữu Lời (nhà thơ Đỗ Hoàng) bố là sỹ quan quân đội Pháp; Trần Văn Hải (nhà thơ Hải Kỳ) “bố đi ”; tôi thì bố là địa chủ bị bắn oan trong CCRĐ, rồi thằng Ngò, bố làm lý trưởng.v.v..Đứa nào cũng bị xã hội ruồng bỏ, nên tìm đến thơ như một cứu cánh cuối cùng. Năm lớp 10, Mỹ Dạ, tôi và Hải Kỳ được trường chọn  đi thi học sinh giỏi văn toàn quốc. Mỹ Dạ  đẹp gái, giỏi văn, lại hát hay, giọng ngâm thơ tốt, nên đã trở thành nhân vật chính trên sân khấu trường tôi thời ấy. Tôi nhớ Dạ mỗi lần  mặc bộ áo lụa đen, bước ra sân khấu, nghiêng chào rồi cất tiếng giới thiệu chương trình văn nghệ, là tiếng vỗ tay nổi lên rào rào” Khi học xong cấp 3 (do chiến tranh, trường tôi sơ tán ở Ngư Hoá, miền Tây Quảng Bình) năm 1968, tôi còn được Uỷ ban xã ký hồ sơ cho đi đại học Thương Mại, Đỗ Hoàng và Hải Kỳ đi sư phạm “10+3” (tức lớp 10 học sư phạm 3 tháng ở vùng núi Troóc, nơi Trường Sư phạm Quảng Bình sơ tán, để ra dạy cấp 2); còn Mỹ Dạ thì không được đi học đâu cả, vì lý lịch “quá đen”. Dạ cùng thằng Ngò, hai đứa cuối cùng rời làng rừng Ngư Hoá, lủi thủi vừa khóc vừa đi bộ vượt bom đạn Mỹ 150 cây số từ núi rừng Tuyên Hoá về Lệ Thuỷ với mẹ.

Chủ nghĩa lý lịch một thời ấy như  nhát kiếm oan nghiệt chém ngang con đường học hành của Dạ. May mà một ngày nọ, vào khoảng năm 1970, cố nhà thơ Hải Bằng, một nhà thơ Hoàng Tộc Huế do dính líu vào vụ Nhân Văn - Giai Phẩm Hà Nội, đã bị “phát vãng” về Quảng Bình làm nghề đi bán sách, lên Lê Thuỷ. Nghe người ta đồn ở thôn Tuy Lộc có  con bé Dạ làm thơ hay lắm, Hải Bằng hăm hở tìm đến. Đọc thơ Dạ ông thấy đây là một tài thơ đích thực. Rồi nhờ nhà thơ Xuân Hoàng, nhà văn Trần Công Tấn, Mỹ Dạ được tuyển về cơ quan Hội Văn nghệ Quảng Bình. Như vậy, chính trái tim thương tổn đã đưa Dạ đến với thơ... Mãi đến 10 năm sau, năm 1978, khi đất nước thanh bình, khi đã trở thành nhà văn Việt Nam, Mỹ Dạ mới được Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên giới thiệu đi học Trường Viết văn Nguyễn Du. Sau đó năm 1988, đi học khoá cao học 3 tháng tại Học viện Gorki (Liên Xô cũ)...

Và Mỹ Dạ đã trọn đời sống với  thơ bằng trái tim thương tổn không thành sẹo ấy. Nói cách khác nhịp đập trái tim đã thành âm hưởng chủ đạo, thành nỗi đau trường cửu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: ...Mẹ sinh em ngày này / Mưa dột bầm mái tóc / Gió tê buốt hai tay / Mẹ không có cửa nhà / Em- đứa trẻ vắng cha / Như mầm cây trên đá / Biết khi nào nở hoa.../ Nỗi mình biết ngỏ ai hay / Bao đêm nước mắt vơi đầy, mẹ ơi!. Ngay đến những năm gần đây, khi đã  tuổi hưu, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn không thoát được sự ám ảnh về nỗi đau thời  thiếu nữ: Em có nỗi buồn như tro / Hoang lạnh cả một thời thiếu nữ (Anh đã nhìn thấy em); Hay Em tựa vào em- đơn độc quen rồi  / Em tựa vào em - gắng vững giữa đời (Cho anh tựa vào em) .v.v..
 
Trái tim thương tổn đầy trải nghiệm ấy đã cho Lâm Thị Mỹ Dạ độ nhạy cảm, sẻ chia trước thân phận những người khốn khổ vì chiến tranh, nghèo đói và sự bạc bẽo của nhân tình - tạo nên trực cảm thơ lâu bền của chị. Dạ luôn trân trọng, chăm chút từng biểu hiện nhỏ của tình cảm cuộc sống. Bạn bè đau ốm mới vô viện đã sốt sắng đi thăm. Con bạn học xong chưa xin được việc làm cũng băn khoăn thao thức. Thấy  hoàn cảnh ai đau thương cũng rưng rưng nước mắt. Bạn đến nhà mùa hạ thì que kem, đĩa bánh nậm, mùa đông thì cốc rượu, đĩa đậu phộng rang. Khi không có đủ tiền để lo những thứ đó, tôi thấy Dạ thường đi vào đi ra không yên. Viết về một người lính Mỹ  bị chết ở chiến trường Việt , Lâm Thị Mỹ Dạ cũng có cái nhìn rất độ lượng: Rồi có lúc  cuối đường tôi gục ngã / Viên đạn ai găm khuôn ngực máu đầy / Xin hãy giở dưới lần da chó sói / Trái tim nai đỏ thắm thơ ngây!! Sang thăm nước Mỹ, đến trước bức tường đen ở Wasington D.C, nơi khắc tên 58 ngàn lính Mỹ tử trận trong cuộc chiến Việt Nam, Dạ cảm thấy mình đang đau nỗi đau của những bà mẹ Mỹ:  Khuôn ngực đã cất giấu / Một trái tim/ Nặng hơn quả đất... Hãy nhìn xem / Những tên người đang chảy máu / Hãy nhìn xem / Những tên người đang chảy máu / Và bức tường đen như một vết thương/... không bao giờ thành sẹo (Bức tường đen)! Chỉ có trái tim con- người-nhân-loại mới biết đồng cảm, sẻ chia bao la như thế!

Có lần Mỹ Dạ thổ lộ về mình trong thơ: “Tóc điểm  bạc mà hồn còn trẻ nít”. Nghĩa là còn biết ngạc nhiên trước mỗi sự thay đổi nhỏ của sự sống quanh mình. Nhờ sự “ngây thơ” đó, Dạ đã phát hiện ra  những hình tượng thơ lạ, rất gợi cảm ngay trong cuộc sống thường nhật hàng ngày để viết nên những bài thơ sâu sắc như Trái tim sinh nở, Anh đừng khen em, Tôi về với tôi, Anh đã nhìn thấy em, Đề tặng một giấc mơ, .v.v.. Bạn yêu thơ cả nước đã thuộc hàng trăm câu thơ rất hay của Lâm Thị Mỹ Dạ trong các tập thơ trước, như: Nhìn lá / cứ ngỡ lá lá ngọt.../ Nếu được vẽ chiếc hôn dưới mặt trời / Tôi sẽ vẽ chiếc hôn như lá... Hay Em nằm dưới đất sâu / Như khoảng trời đã nằm yên trong đất.../ Cái chết em xanh khoảng trời con gái/ Tôi soi mình trong cuộc sống của em... Hay Đêm qua / Tôi mơ thành tôi / Tôi mơ thành chim / Tôi mơ thành giấc mơ.v.v.. Trong tập bản thảo thơ mới nhất, dự kiến đặt tên là Hồn đầy hoa cúc dại, tập hợp những bài viết từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Mỹ Dạ cũng có nhiều hình tượng thơ hay và lạ như thời còn trẻ: Em quặn mình như rễ giữa đất im (Cho anh tựa vào em); Nếu được lạc cùng sông / Xin lạc mãi / Để hồn trôi êm ái khúc du ca (Đi cùng sông Hương); Vì hương ta mãi lòng vòng / Làm sao cầm được có - không mà về... (Đi qua một làn hương).v.v.. Nhờ trực cảm mạnh, thơ Mỹ Dạ là thơ thốt lên  từ sự buốt nhói của con tim, chứ không phải “chuyện đời lựa lời mà viết” (Đỗ Hoàng) như nhiều người khác. Thơ ấy luôn chân thật mà mới mẻ, xúc động lòng người.

Cái “trực cảm thơ” ấy do số phận và sự từng trải của từng nhà thơ tạo nên, không thể học ở sách vở hay trường lớp nào mà có được. Nó quy định xu hướng và giọng điệu của tùng nhà thơ. Ai không có cái “nỗi niềm” để chia sẻ với mọi người ấy, thì không thể đi với văn chương lâu bền được. Bởi thế, trái tim thương tổn luôn đau đớn đã trở thành hình tượng đậm nét nhất  trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: Dẫu khi tắt nghỉ cuộc đời / Trái tim mẹ giữa đất trời con yêu (Trái tim sinh nở); Hỡi người bán quạt giờ thiên cổ / Sao gió trong tôi cứ thổi hoài (Chợ tuổi thơ); Khi tay chạm trống đồng ngân / Sững sờ tôi ngỡ mình thành người xưa” (Tiếng trống đồng). Bài thơ “Nói với trái tim” là bài thơ hay, triết lý sâu mà mộc mạc, chân thành. Có thể đây là “tuyên ngôn của trái tim thương tổn” của Lâm Thị Mỹ Dạ: Trái tim dịu dàng, trái tim đằm thắm / Sao em lại mang dáng lưỡi cày / Để buồn đau chạm vào em là buốt nhói  / Để tình yêu chạm vào em là tốt tươi . Mỹ Dạ cho rằng trái tim “là nơi bắt đầu”, “là nơi kết thúc”, trái tim “không biên giới”, “Em sinh ra để làm ra, để chứng kiến và chứa đựng. Không gian không sâu thẳm bằng em / Biển khơi không dữ dội bằng em / Mặt trời không nóng bức bằng em”... Tất cả sức mạnh ấy được đúc lại thành nỗi đau thấm đẫm cuộc đời, rất Lâm Thị Mỹ Dạ, cũng rất  CON NGƯỜI:
Ôi trái tim
Sao em lại mang dáng lưỡi cày
Để suốt đời không bao giờ yên ổn
Để suốt đời cày lên
Cày lên
Đớn đau và hạnh phúc...

Cứ ngỡ trái tim tổn thương ấy về cuối đời sẽ yên ổn hơn, bớt đau đớn hơn. Hoá ra không phải. Ngày 14-6-1998, trong lúc Mỹ Dạ đang ở Hà Nội, chuẩn bị ngày mai lên máy bay đi dự toạ đàm thơ ở Mỹ thì chồng chị, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bị tai biến mạch máu não, hôn mê ở Đà Nẵng hai tháng ròng. Dạ phải huỷ chuyến đi Mỹ, bay về Đà Nẵng ngay. Từ đó  đến nay, đã 9 năm rồi, nữ thi sĩ của chúng ta luôn ở bên chồng. Chị như “người mẹ” bao dung, săn sóc, đút mớm cơm cháo, thuốc men, xoa bóp, tắm rửa, vệ sinh cho chồng. Trái tim nhân hậu ấy thêm một lần “rớm máu”. Trăm nghìn thứ việc chưa từng có đè lên vai người phụ nữ làm thơ xinh đẹp ấy. Tuổi ngày càng cao, Mỹ Dạ càng bị nhiều thứ bệnh tật hành hạ, viêm khớp, viêm xoang, nhức đầu.v.v..Thế mà chị vẫn lo liệu, tổ chức đưa chồng đi chữa bệnh Hà Nội, Đà Nẵng, Khe Sanh, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh đến  6 chuyến  liền. Nghe ai nói thuốc gì hay, thầy nào giỏi, dù xa  xôi, tốn kém đến đâu, chị vẫn đưa chồng đến cho bằng được. Bàn tay nâng em thành bảo mẫu / Nước mắt lặn vào trong cho anh thấy nụ cười / Bệnh tật lo toan giấu vào đêm trắng / Giữa tháng ngày trĩu nặng / Em đứng thẳng người/ Cho anh tựa vào em! (Cho anh tựa vào em)

Có lẽ vì những vết thương tim suốt đời không thành sẹo ấy, nên dù Lâm Thị Mỹ Dạ đã “Giơ cao lá cờ trắng / Trước thơ”, nghĩa là xin đầu hàng thơ,  thơ vẫn đến với chị nồng nàn, chân chất. Vì thơ như nước mắt đã lặn sâu vào đời chị...
       Huế 1-2007
            N.M

(nguồn: TCSH số 217 - 03 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...

  • NGUYỄN THỊ THÁITôi không đi trong mưa gió để mưu sinh, để mà kể chuyện. Ngày ngày tôi ngồi bên chiếc máy may, may bao chiếc áo cho người. Tôi chưa hề may, mà cũng không biết cách may một chiếc Yêng như thế nào.

  • Nhà thơ Hải Bằng tên thật là Vĩnh Tôn, sinh ngày 3 tháng 2 năm 1930, quê ở thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế. Ông mất ngày 7 tháng 7 năm 1998.

  • NGUYỄN VĂN HOACuốn sách: "Nhớ Phùng Quán" của Nhà xuất bản Trẻ, do Ngô Minh sưu tầm, tuyển chọn và biên soạn với nhiều tác giả phát hành vào quý IV năm 2003. Cuốn sách có 526 trang khổ 13x19cm. Bìa cứng, in 1000 cuốn. Rất nhiều ảnh đẹp của Nguyễn Đình Toán - nhà nhiếp ảnh chân dung nổi tiếng của Việt nam. Đơn vị liên doanh là Công ty Văn hoá Phương Nam.

  • ĐÀ LINHĐể có trận quyết chiến chiến lược Điện Biên Phủ, trước đó quân đội Nhân dân Việt Nam đã có những trận đánh để đời mở ra những khả năng to lớn về thế và lực cho chúng ta. Trong đó Trận chiến trên đường (thuộc địa) số 4 - biên giới Cao Bắc Lạng 1950 là một trận chiến như vậy.

  • HOÀNG VĂN HÂNLướt qua 30 bài thơ của Ngô Đức Tiến trong “Giọng Nghệ”, hãy dừng lại ở những bài đề tài tình bạn. Với đặc điểm nhất quán, bạn của anh luôn gắn liền với những hoài niệm, với những địa chỉ cụ thể, về một khoảng thời gian xác định. Người bạn ấy hiện lên khi anh “nghĩ về trường” “Thăm trường cũ”, hoặc là lúc nhớ quá phải “Gửi bạn Trường Dùng” “ Nhớ bạn Thanh Hoá”. Bạn của anh gắn với tên sông, tên núi: sông Bùng, sông Rộ, Lạt, Truông Dong, Đồng Tháp.

  • FAN ANHTrên thế gian này tồn tại biết bao nhiêu báu vật, hoặc những huyền thoại về báu vật, thì cũng gần như hiện hữu bấy nhiêu nỗi đau và bi kịch của con người vốn dành cả cuộc đời để kiếm tìm, bảo vệ, chiếm đoạt hay đơn giản hơn, đặt niềm tin vào những báu vật ấy. Nhẫn thạch (Syngué sabour - Pierre de patience) của Atiq Rahimi trước tiên là một báu vật trong đời sống văn học đương đại thế giới, với giải thưởng Goncourt năm 2008, sau đó là một câu chuyện về một huyền thoại báu vật của những người theo thánh Allad.

  • KIM QUYÊNSinh năm 1953 tại Thừa Thiên (Huế), tốt nghiệp Đại học Sư phạm Huế năm 1976, sau đó về dạy học ở Khánh Hoà (Nha Trang) hơn 10 năm. Từ năm 1988 đến nay, nhà thơ xứ Huế này lại lưu lạc ở thành phố Hồ Chí Minh, tiếp tục làm thơ và viết báo. Chị là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hiện nay là biên tập viên Tạp chí Văn hoá Nghệ thuật của Sở Thông tin Văn hoá thành phố Hồ Chí Minh.

  • VÕ QUANG YẾN Tôi yêu tiếng nước tôi                Từ khi mới ra đời làm người                                                Phạm Duy

  • PHẠM NGUYÊN TƯỜNGKhao khát, đinh ninh một vẻ đẹp trường tồn giữa "cuộc sống có nhiều hư ảo", Vú Đá, phải chăng đó chính là điều mà kẻ lãng du trắng tóc Nhất Lâm muốn gửi gắm qua tập thơ mới nhất của mình? Bài thơ nhỏ, nằm nép ở bìa sau, tưởng chỉ đùa chơi nhưng thực sự mang một thông điệp sâu xa: bất kỳ một khoảnh khắc tuyệt cảm nào của đời sống cũng có thể tan biến nếu mỗi người trong chúng ta không kịp nắm bắt và gìn giữ, để rồi "mai sau mang tiếng dại khờ", không biết sống. Cũng chính từ nhận thức đó, Nhất Lâm luôn là một người đi nhiều, viết nhiều và cảm nghiệm liên tục qua từng vùng đất, từng trang viết. Câu chữ của ông, vì thế, bao giờ cũng là những chuyển động nhiệt thành nhất của đời sống và của chính bản thân ông.

  • MINH ĐỨC TRIỀU TÂM ẢNHTôi nghe rằng,Rạch ròi, đa biện, phân minh, khúc chiết... là ngôn ngữ khôn ngoan của lý trí nhị nguyên.Chan hoà, đa tình, niềm nỗi... là ngôn ngữ ướt át của trái tim mẫn cảm.Cô liêu, thuỷ mặc, bàng bạc mù sương, lấp ló trăng sao... là ngôn ngữ của non xanh tiểu ẩn.Quán trọ, chân cầu, khách trạm, phong trần lịch trải... là ngôn ngữ của lãng tử giang hồ.Điềm đạm, nhân văn, trung chính... là ngôn ngữ của đạo gia, hiền sĩ.

  • MAI VĂN HOANTập I hồi ký “Âm vang thời chưa xa” của nhà thơ Xuân Hoàng ra mắt bạn đọc vào năm 1995. Đã bao năm trôi qua “Âm vang thời chưa xa” vẫn còn âm vang trong tâm hồn tôi. Với tôi, anh Xuân Hoàng là người bạn vong niên. Tôi là một trong những người được anh trao đổi, trò chuyện, đọc cho nghe những chương anh tâm đắc khi anh đang viết tập hồi ký để đời này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ giới thiệuNhân kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhà phê bình Hoài Thanh (1909-2009)Chúng ta từng biết cố đô “Huế Đẹp và Thơ” một thời là nơi hội tụ các văn nhân, trong đó có những tên tuổi kiệt xuất của làng “Thơ Mới” Việt Nam như Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Chế Lan Viên…; nhưng nhà phê bình Hoài Thanh lại đến với Huế trong một hoàn cảnh đặc biệt và có thể nói là rất tình cờ.

  • LÊ TRỌNG SÂM giới thiệuBà sinh ra và lớn lên ở Painpol và Saint-Malo, một đô thị cổ vùng Bretagne, miền đông bắc nước Pháp. Học trung cấp và tốt nghiệp cử nhân văn chương ở thành phố Nice, vùng xanh da trời miền nam nước Pháp. Là hội viên Hội nhà văn Pháp từ năm 1982, nay bà đã trở thành một trong số ít nhà văn Châu Âu đã tiếp thu và thâm nhập sâu sắc vào rất nhiều khía cạnh của văn hoá Việt Nam.