Lâm Thị Mỹ Dạ, nước mắt lặn vào trong

15:06 30/10/2008
NGÔ MINHLTS: Ngày 13-2-2007, Bộ Văn hoá Thông tin đã công bố quyết định của Chủ tịch nước CHXHCN Việt Nam về việc tặng giải thưởng Hồ Chí Minh và giải thưởng nhà nước về văn học nghệ thuật. Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ được là 1 trong 47 nhà văn được giải thưởng nhà nước với chùm tác phẩm: Đề tặng một giấc mơ (tập thơ 1988), Trái tim sinh nở ( tập thơ - 1974), Bài thơ không năm tháng (tập thơ - 1983). Nhân dịp ngày Quốc tế phụ nữ 8-3, TCSH xin giới thiệu bài viết của nhà thơ Ngô Minh về nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ.

Gặp nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vài lần đầu, thấy chị luôn cười hiền dịu, quan tâm đến mọi người, lại xinh đẹp, trắng trẻo, nhiều người cứ tưởng nữ nhà thơ nổi tiếng này sống trong nhung lụa từ nhỏ. Hoàn toàn không phải vậy. Tuổi thơ của Mỹ Dạ là tuổi thơ đầy buồn đau và nước mắt. Dạ lúc nào cũng có cảm giác mình là đứa trẻ “tội lỗi”. Tôi là bạn học với Mỹ Dạ từ lúc ở cấp ba trường huyện, tôi hiểu rõ tất cả những điều ấy.
Mọi duyên cớ bắt đầu từ chuyện phân biệt lý lịch rất nặng nề một thời. Ba của Mỹ Dạ là ông Lâm Thanh, một người gốc Hoa từng tham gia Việt Minh ở huyện đội Lệ Thuỷ thời chống Pháp. Cuối  cuối năm 1949, ông đưa bố mẹ và cả nhà vô Sài Gòn làm ăn. Khi sắp xếp nơi ở cho bố mẹ yên ổn, năm 1954, ông ra đón mẹ con Mỹ Dạ. Ông đã mua vé cho cả ba người cùng đi, nhưng đến phút cuối cùng, thì bà Lý Thị  Đấu, mẹ Dạ, không đi vì không thể bỏ lại người mẹ già và đứa em gái bơ vơ. Mỹ Dạ là  tên gọi một kỷ niệm tình yêu nồng ấm của ông. Vô Sài Gòn ông Lâm Thanh vẫn làm ăn buôn bán đủ sống và tham gia giúp đỡ cách mạng, cho đến khi hai tai bị điếc không nghe được nữa mới thôi. Sau ngày giải phóng miền , những người cùng hoạt động nội thành đã xác nhận để ông Thanh được tặng “Bằng khen Chính phủ” vì đã có công lao với cách mạng thời chống Mỹ. Bằng khen do Thủ tướng Phạm Văn Đồng ký. Tất cả bốn đứa con ông ở Sài Gòn đều làm nghề dạy học... Và may mắn thay, nhờ đất nước thống nhất, ông đã gặp đứa con gái Lệ Thuỷ của mình. Ông càng bất ngờ và sung sướng khi biết đứa con, khi xa nó còn đỏ hỏn ấy, bây giờ đã trở thành nhà thơ nối tiếng của đất nước!

Thế mà, trong bao nhiêu năm, Lâm Thị Mỹ Dạ lại phải mang một lúc hai nỗi đau cực lớn: Tuổi thơ thiếu vắng tình thương của cha và là cháu nội của Đại địa chủ (ông nội Mỹ Dạ đang ở Sài Gòn nên chỉ bị tịch thu toàn bộ ruộng đất, nhà cửa), rồi con của một “kẻ đi Nam theo địch”. Vết đen lý lịch ấy thời đó được xã hội xếp vào loại nguy hiểm cần phải luôn cảnh giác, đề phòng. Đó là “vết nhơ” bị mọi người coi khinh, dè bỉu... Tuổi nhỏ, đi học hay đi chơi, Mỹ Dạ luôn bị trẻ con trong xóm, trong xã xa lánh, chúng coi Dạ như con hủi, không dám gần. Suốt ngày, Dạ chỉ  lui cui bên mẹ bán quán ở chợ Tuy Lộc. Những năm ấy Mỹ Dạ luôn ở trong tâm trạng hoang mang và buồn tủi. Mẹ của Dạ là người vùng An Cựu, Huế. Thuở nhỏ học tiểu học, bà có học ít tiếng Pháp. Thời trẻ, bà thường đến các đồn Pháp bán hàng cho bọn lính. Khi Đội cải cách về, nghe bà thường quen nói chêm ít tiếng Pháp, họ quy là “địch cài lại”, là gián điệp, người của CIA. Thời CCRĐ, bà cũng bị xếp vào diện  phải “đấu tố”. Nỗi đau ấy ám ảnh tới mức, 10 tuổi Mỹ Dạ đã làm cả tập thơ buồn 32 bài, chép trong cuốn vở học trò. Nhưng không biết chiến tranh, cuốn sổ ấy bị thất lạc. Dạ chỉ nhớ được mấy câu  trong bài thơ có tựa đề là  Dòng sông đen: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng / Hắt máu xuống dòng sông đen...

Không hiểu sao cái lớp cấp ba của tôi thời đó lại có nhiều đứa lý lịch xấu đến thế! Ngoài Mỹ Dạ ra còn có Đỗ Hữu Lời (nhà thơ Đỗ Hoàng) bố là sỹ quan quân đội Pháp; Trần Văn Hải (nhà thơ Hải Kỳ) “bố đi ”; tôi thì bố là địa chủ bị bắn oan trong CCRĐ, rồi thằng Ngò, bố làm lý trưởng.v.v..Đứa nào cũng bị xã hội ruồng bỏ, nên tìm đến thơ như một cứu cánh cuối cùng. Năm lớp 10, Mỹ Dạ, tôi và Hải Kỳ được trường chọn  đi thi học sinh giỏi văn toàn quốc. Mỹ Dạ  đẹp gái, giỏi văn, lại hát hay, giọng ngâm thơ tốt, nên đã trở thành nhân vật chính trên sân khấu trường tôi thời ấy. Tôi nhớ Dạ mỗi lần  mặc bộ áo lụa đen, bước ra sân khấu, nghiêng chào rồi cất tiếng giới thiệu chương trình văn nghệ, là tiếng vỗ tay nổi lên rào rào” Khi học xong cấp 3 (do chiến tranh, trường tôi sơ tán ở Ngư Hoá, miền Tây Quảng Bình) năm 1968, tôi còn được Uỷ ban xã ký hồ sơ cho đi đại học Thương Mại, Đỗ Hoàng và Hải Kỳ đi sư phạm “10+3” (tức lớp 10 học sư phạm 3 tháng ở vùng núi Troóc, nơi Trường Sư phạm Quảng Bình sơ tán, để ra dạy cấp 2); còn Mỹ Dạ thì không được đi học đâu cả, vì lý lịch “quá đen”. Dạ cùng thằng Ngò, hai đứa cuối cùng rời làng rừng Ngư Hoá, lủi thủi vừa khóc vừa đi bộ vượt bom đạn Mỹ 150 cây số từ núi rừng Tuyên Hoá về Lệ Thuỷ với mẹ.

Chủ nghĩa lý lịch một thời ấy như  nhát kiếm oan nghiệt chém ngang con đường học hành của Dạ. May mà một ngày nọ, vào khoảng năm 1970, cố nhà thơ Hải Bằng, một nhà thơ Hoàng Tộc Huế do dính líu vào vụ Nhân Văn - Giai Phẩm Hà Nội, đã bị “phát vãng” về Quảng Bình làm nghề đi bán sách, lên Lê Thuỷ. Nghe người ta đồn ở thôn Tuy Lộc có  con bé Dạ làm thơ hay lắm, Hải Bằng hăm hở tìm đến. Đọc thơ Dạ ông thấy đây là một tài thơ đích thực. Rồi nhờ nhà thơ Xuân Hoàng, nhà văn Trần Công Tấn, Mỹ Dạ được tuyển về cơ quan Hội Văn nghệ Quảng Bình. Như vậy, chính trái tim thương tổn đã đưa Dạ đến với thơ... Mãi đến 10 năm sau, năm 1978, khi đất nước thanh bình, khi đã trở thành nhà văn Việt Nam, Mỹ Dạ mới được Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên giới thiệu đi học Trường Viết văn Nguyễn Du. Sau đó năm 1988, đi học khoá cao học 3 tháng tại Học viện Gorki (Liên Xô cũ)...

Và Mỹ Dạ đã trọn đời sống với  thơ bằng trái tim thương tổn không thành sẹo ấy. Nói cách khác nhịp đập trái tim đã thành âm hưởng chủ đạo, thành nỗi đau trường cửu trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: ...Mẹ sinh em ngày này / Mưa dột bầm mái tóc / Gió tê buốt hai tay / Mẹ không có cửa nhà / Em- đứa trẻ vắng cha / Như mầm cây trên đá / Biết khi nào nở hoa.../ Nỗi mình biết ngỏ ai hay / Bao đêm nước mắt vơi đầy, mẹ ơi!. Ngay đến những năm gần đây, khi đã  tuổi hưu, thơ Lâm Thị Mỹ Dạ vẫn không thoát được sự ám ảnh về nỗi đau thời  thiếu nữ: Em có nỗi buồn như tro / Hoang lạnh cả một thời thiếu nữ (Anh đã nhìn thấy em); Hay Em tựa vào em- đơn độc quen rồi  / Em tựa vào em - gắng vững giữa đời (Cho anh tựa vào em) .v.v..
 
Trái tim thương tổn đầy trải nghiệm ấy đã cho Lâm Thị Mỹ Dạ độ nhạy cảm, sẻ chia trước thân phận những người khốn khổ vì chiến tranh, nghèo đói và sự bạc bẽo của nhân tình - tạo nên trực cảm thơ lâu bền của chị. Dạ luôn trân trọng, chăm chút từng biểu hiện nhỏ của tình cảm cuộc sống. Bạn bè đau ốm mới vô viện đã sốt sắng đi thăm. Con bạn học xong chưa xin được việc làm cũng băn khoăn thao thức. Thấy  hoàn cảnh ai đau thương cũng rưng rưng nước mắt. Bạn đến nhà mùa hạ thì que kem, đĩa bánh nậm, mùa đông thì cốc rượu, đĩa đậu phộng rang. Khi không có đủ tiền để lo những thứ đó, tôi thấy Dạ thường đi vào đi ra không yên. Viết về một người lính Mỹ  bị chết ở chiến trường Việt , Lâm Thị Mỹ Dạ cũng có cái nhìn rất độ lượng: Rồi có lúc  cuối đường tôi gục ngã / Viên đạn ai găm khuôn ngực máu đầy / Xin hãy giở dưới lần da chó sói / Trái tim nai đỏ thắm thơ ngây!! Sang thăm nước Mỹ, đến trước bức tường đen ở Wasington D.C, nơi khắc tên 58 ngàn lính Mỹ tử trận trong cuộc chiến Việt Nam, Dạ cảm thấy mình đang đau nỗi đau của những bà mẹ Mỹ:  Khuôn ngực đã cất giấu / Một trái tim/ Nặng hơn quả đất... Hãy nhìn xem / Những tên người đang chảy máu / Hãy nhìn xem / Những tên người đang chảy máu / Và bức tường đen như một vết thương/... không bao giờ thành sẹo (Bức tường đen)! Chỉ có trái tim con- người-nhân-loại mới biết đồng cảm, sẻ chia bao la như thế!

Có lần Mỹ Dạ thổ lộ về mình trong thơ: “Tóc điểm  bạc mà hồn còn trẻ nít”. Nghĩa là còn biết ngạc nhiên trước mỗi sự thay đổi nhỏ của sự sống quanh mình. Nhờ sự “ngây thơ” đó, Dạ đã phát hiện ra  những hình tượng thơ lạ, rất gợi cảm ngay trong cuộc sống thường nhật hàng ngày để viết nên những bài thơ sâu sắc như Trái tim sinh nở, Anh đừng khen em, Tôi về với tôi, Anh đã nhìn thấy em, Đề tặng một giấc mơ, .v.v.. Bạn yêu thơ cả nước đã thuộc hàng trăm câu thơ rất hay của Lâm Thị Mỹ Dạ trong các tập thơ trước, như: Nhìn lá / cứ ngỡ lá lá ngọt.../ Nếu được vẽ chiếc hôn dưới mặt trời / Tôi sẽ vẽ chiếc hôn như lá... Hay Em nằm dưới đất sâu / Như khoảng trời đã nằm yên trong đất.../ Cái chết em xanh khoảng trời con gái/ Tôi soi mình trong cuộc sống của em... Hay Đêm qua / Tôi mơ thành tôi / Tôi mơ thành chim / Tôi mơ thành giấc mơ.v.v.. Trong tập bản thảo thơ mới nhất, dự kiến đặt tên là Hồn đầy hoa cúc dại, tập hợp những bài viết từ đầu thế kỷ XXI đến nay, Mỹ Dạ cũng có nhiều hình tượng thơ hay và lạ như thời còn trẻ: Em quặn mình như rễ giữa đất im (Cho anh tựa vào em); Nếu được lạc cùng sông / Xin lạc mãi / Để hồn trôi êm ái khúc du ca (Đi cùng sông Hương); Vì hương ta mãi lòng vòng / Làm sao cầm được có - không mà về... (Đi qua một làn hương).v.v.. Nhờ trực cảm mạnh, thơ Mỹ Dạ là thơ thốt lên  từ sự buốt nhói của con tim, chứ không phải “chuyện đời lựa lời mà viết” (Đỗ Hoàng) như nhiều người khác. Thơ ấy luôn chân thật mà mới mẻ, xúc động lòng người.

Cái “trực cảm thơ” ấy do số phận và sự từng trải của từng nhà thơ tạo nên, không thể học ở sách vở hay trường lớp nào mà có được. Nó quy định xu hướng và giọng điệu của tùng nhà thơ. Ai không có cái “nỗi niềm” để chia sẻ với mọi người ấy, thì không thể đi với văn chương lâu bền được. Bởi thế, trái tim thương tổn luôn đau đớn đã trở thành hình tượng đậm nét nhất  trong thơ Lâm Thị Mỹ Dạ: Dẫu khi tắt nghỉ cuộc đời / Trái tim mẹ giữa đất trời con yêu (Trái tim sinh nở); Hỡi người bán quạt giờ thiên cổ / Sao gió trong tôi cứ thổi hoài (Chợ tuổi thơ); Khi tay chạm trống đồng ngân / Sững sờ tôi ngỡ mình thành người xưa” (Tiếng trống đồng). Bài thơ “Nói với trái tim” là bài thơ hay, triết lý sâu mà mộc mạc, chân thành. Có thể đây là “tuyên ngôn của trái tim thương tổn” của Lâm Thị Mỹ Dạ: Trái tim dịu dàng, trái tim đằm thắm / Sao em lại mang dáng lưỡi cày / Để buồn đau chạm vào em là buốt nhói  / Để tình yêu chạm vào em là tốt tươi . Mỹ Dạ cho rằng trái tim “là nơi bắt đầu”, “là nơi kết thúc”, trái tim “không biên giới”, “Em sinh ra để làm ra, để chứng kiến và chứa đựng. Không gian không sâu thẳm bằng em / Biển khơi không dữ dội bằng em / Mặt trời không nóng bức bằng em”... Tất cả sức mạnh ấy được đúc lại thành nỗi đau thấm đẫm cuộc đời, rất Lâm Thị Mỹ Dạ, cũng rất  CON NGƯỜI:
Ôi trái tim
Sao em lại mang dáng lưỡi cày
Để suốt đời không bao giờ yên ổn
Để suốt đời cày lên
Cày lên
Đớn đau và hạnh phúc...

Cứ ngỡ trái tim tổn thương ấy về cuối đời sẽ yên ổn hơn, bớt đau đớn hơn. Hoá ra không phải. Ngày 14-6-1998, trong lúc Mỹ Dạ đang ở Hà Nội, chuẩn bị ngày mai lên máy bay đi dự toạ đàm thơ ở Mỹ thì chồng chị, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường, bị tai biến mạch máu não, hôn mê ở Đà Nẵng hai tháng ròng. Dạ phải huỷ chuyến đi Mỹ, bay về Đà Nẵng ngay. Từ đó  đến nay, đã 9 năm rồi, nữ thi sĩ của chúng ta luôn ở bên chồng. Chị như “người mẹ” bao dung, săn sóc, đút mớm cơm cháo, thuốc men, xoa bóp, tắm rửa, vệ sinh cho chồng. Trái tim nhân hậu ấy thêm một lần “rớm máu”. Trăm nghìn thứ việc chưa từng có đè lên vai người phụ nữ làm thơ xinh đẹp ấy. Tuổi ngày càng cao, Mỹ Dạ càng bị nhiều thứ bệnh tật hành hạ, viêm khớp, viêm xoang, nhức đầu.v.v..Thế mà chị vẫn lo liệu, tổ chức đưa chồng đi chữa bệnh Hà Nội, Đà Nẵng, Khe Sanh, Long An, Thành phố Hồ Chí Minh đến  6 chuyến  liền. Nghe ai nói thuốc gì hay, thầy nào giỏi, dù xa  xôi, tốn kém đến đâu, chị vẫn đưa chồng đến cho bằng được. Bàn tay nâng em thành bảo mẫu / Nước mắt lặn vào trong cho anh thấy nụ cười / Bệnh tật lo toan giấu vào đêm trắng / Giữa tháng ngày trĩu nặng / Em đứng thẳng người/ Cho anh tựa vào em! (Cho anh tựa vào em)

Có lẽ vì những vết thương tim suốt đời không thành sẹo ấy, nên dù Lâm Thị Mỹ Dạ đã “Giơ cao lá cờ trắng / Trước thơ”, nghĩa là xin đầu hàng thơ,  thơ vẫn đến với chị nồng nàn, chân chất. Vì thơ như nước mắt đã lặn sâu vào đời chị...
       Huế 1-2007
            N.M

(nguồn: TCSH số 217 - 03 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN ĐÔNG NHẬT Trong Lời giới thiệu tác phẩm mới xuất bản của Phan Trung Thành, nhà thơ Nguyễn Quang Thiều đã nhận xét rằng, tác giả của Ăn xà bông(*) đã rẽ ra được một lối đi cho riêng mình như kết quả của nỗ lực lao động nghệ thuật.

  • PHAN HỒNG MINH «Long thành cầm giả ca» là bài thơ mở đầu phần «Bắc hành tạp lục» trong tập thơ chữ Hán của Nguyễn Du (1). Bài thơ ghi lại mối cảm thương vô hạn của nhà thơ với cuộc đời «dâu bể» của một ca nữ tài hoa đất Long thành mà ông được tận mắt chứng kiến.

  • THĂNG LONG (Nhân đọc Vũ điệu không vần - Tứ khúc - và những tiểu luận khác của Khế Iêm, Nxb Văn học, 2011)

  • KHÚC CẦM Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh - Hoài Chân xuất bản năm 1942 là cuốn sách khám phá và đánh giá đầu tiên đối với phong trào Thơ Mới.

  • LÊ THĂNG LONG Sự ra đời của cấu trúc luận, giải cấu trúc đã kéo theo sự đổ vỡ của những quan niệm truyền thống mang tính phổ quát về nghệ thuật sáng tạo khởi thủy từ Platon.

  • TRẦN THỊ NGỌC LAN (Đọc tập thơ Ngược xuôi thế sự, Nxb Văn học, 2011)

  • THÁI KIM LAN Tưởng niệm Cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu Vừa qua tôi lục giấy tờ cũ, tình cờ thấy một trang giấy có thủ bút của Thầy Thích Thiện Châu (cố Hoà Thượng Thích Thiện Châu), một bài thơ. Cảm động quá. Bài thơ này Thầy viết sau khi khoá Thiền mùa hè năm 1990 chấm dứt và là lần cuối cùng Thầy sang giảng khoá Thiền tại Muenchen.

  • THI THOẠI        Nhân 90 năm ngày mất Phan Kế Bính (1921– 2011) Phan Kế Bính hiệu là Bưu Văn, bút danh Liên Hồ Tử, người làng Thụy Khuê (làng Bưởi), huyện Hoàng Long, nay thuộc quận Tây Hồ, Hà Nội, thọ 46 tuổi (1875 - 1921).

  • MIÊN DI Không tìm thấy, và cũng đừng nên tìm ở tập thơ này một điều gì đã từng được nhiều người đồng vọng trước đây. Nó là những mảnh tiểu tự sự, những cái nhìn cô lẻ, biệt dị từ đáy thân phận và đôi khi tàn nhẫn.

  • HOÀNG DIỆP LẠC (Đọc tập “Thơ tự chọn” của Nguyên Quân, Nhà xuất bản Văn học, 8-2011)

  • ĐOÀN ÁNH DƯƠNG“Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ tôi âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường dài và hẹp. Con đường này tôi đã quen đi lại lắm lần, nhưng lần này tự nhiên thấy lạ. Cảnh vật chung quanh tôi đều thay đổi, vì chính lòng tôi đương có sự thay đổi lớn: hôm nay tôi đi học”…

  • NGUYỄN TRỌNG ĐỨC (Cảm nhận về tập thơ "Những kỷ niệm tưởng tượng")SHO - Lâu nay, người ta biết đến Trương Đăng Dung với tư cách là một nhà nghiên cứu lí luận văn học. Nhưng gần đây, sự xuất hiện của tập thơ Những kỷ niệm tưởng tượng làm xôn xao văn đàn Việt Nam đã khiến đông đảo bạn đọc không khỏi ngạc nhiên khi nhận ra rằng: bên cạnh một Trương Đăng Dung lí luận còn có một Trương Đăng Dung thơ.

  • ĐÀO ĐỨC TUẤN Lang thang giữa hè Huế nồng nã. Bỗng nhận tin của Minh Tự: thêm một cuốn sách của Nguyễn Xuân Hoàng vừa được bạn bè góp in. Đầy đặn  360 trang sách với chân dung “người buồn trước tuổi” đằm đặm trên bìa đen trắng.

  • Vào lúc 14 giờ 25 phút ngày 13 tháng 7 năm 2011 (nhằm ngày 13 tháng 6 năm Tân Mão), nhà thơ Văn Hữu Tứ, hội viên Hội Nhà văn TT. Huế đã qua đời sau một thời gian lâm trọng bệnh. Từ đây, trong mái nhà anh gần hồ Tịnh Tâm, trên các con đường của Thành phố Huế cũng như những nơi anh thường lui tới, tác giả của các tập thơ “Bên dòng thời gian”, “Tôi yêu cuộc đời đến chết” vĩnh viễn vắng mặt.

  • LÊ HUỲNH LÂM (Đọc tập thơ “Năm mặt đặt tên”, Nxb Thuận Hóa, tháng 5-2011)

  • KHÁNH PHƯƠNG Nguyễn Đặng Mừng đến với nghề viết một cách tự nhiên, mà cũng thầm lặng như cách người ta theo đuổi một lý tưởng. Ông vốn là học trò lớp ban C (ban văn chương) những khóa gần cuối cùng của trường Trung học Nguyễn Hoàng, trường công lập duy nhất và cũng danh tiếng nhất tỉnh Quảng Trị trước 1975.

  • …Thuộc dòng dõi Do Thái Đông Âu, Frederick Feirstein sinh ngày 2 tháng Giêng năm 1940 tại New York City, thân phụ và thân mẫu ông có tên là Arnold và Nettie Feirstein…

  • L.T.S: Nhà thơ Xuân Hoàng sinh năm 1925 tại Đồng Hới, Bình Trị Thiên. Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Nguyên là quyền Chủ tịch Hội Văn nghệ Bình Trị Thiên, thuở nhỏ ông học ở Huế rồi dạy học ở Đồng Hới một thời gian trước khi thoát ly tham gia cách mạng.

  • Anh không thấy thời gian trôi thời gian ở trong máu, không lời ẩn mình trong khóe mắt làn môi trong dáng em đi nghiêng nghiêng như đang viết lên mặt đất thành lời về kiếp người ngắn ngủi.(T.Đ.D)