LƯƠNG THÌN
Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.
Cuốn sách có 13 chương. Mỗi chương nói về một dấu ấn khác nhau trong cuộc đời người phụ nữ mà đam mê, cơ duyên và tình yêu đã đưa chị đến nước Pháp. Các sự kiện được xâu chuỗi với nhau trong một lối kể chuyện hồn nhiên dí dỏm hết sức chân thực. Nhà văn bộc bạch nỗi niềm và những trải nghiệm của mình với bạn đọc bằng ngôn từ giản dị mà đa thanh sắc, giọng điệu linh hoạt làm cho cách kể chuyện của chị trở nên rất cuốn hút.
Nhan đề cuốn tự truyện đưa người đọc vào một thế giới vừa gần, vừa xa. Gần là chuyện làm dâu. Bất kể người phụ nữ nào khi xuất giá theo chồng đều là đi làm dâu - mà nhà văn gọi một cách bông đùa là “Khoác áo sang nhà khác”. Xa là chuyện làm dâu không phải ở xứ mình mà là xứ người. Trước Hiệu Constant không phải chưa ai từng viết về chuyện đi làm dâu ngoại quốc, nhưng điều đáng trân trọng ở cuốn tự truyện này là nhân vật Tôi - tác giả - ngoài mang trong mình thân phận làm dâu con một gia đình người Pháp còn trở thành người mang sứ mệnh gắn kết hai nền văn hóa, hai dân tộc, hai miền đất trong yêu thương. Chị đã cố gắng bằng mọi khả năng để mình và nền văn hóa đã sinh thành ra mình hòa nhập nhưng không hòa tan trong mối quan hệ riêng - chung hài hòa.
Làm dâu nước Pháp mở ra trước mắt người đọc một chân trời mới. Theo bước chân nhà văn và gia đình nhỏ của chị, từng địa danh cụ thể dưới ngòi bút tài hoa lần lượt hiện ra trong thế giới tưởng tượng của người đọc. Từ kinh đô ánh sáng Pari đến Normandie, Touraine, Yonne... say đắm lòng bao lữ khách dạo chơi bằng văn chương. Thiên nhiên cảnh vật nước Pháp hiện lên tuyệt mĩ và tráng lệ với Mũi Trévignon - bãi biển với con sóng to gầm gào, muôn vàn cánh hoa đào vừa nở, những cánh đồng nho xanh mướt làm nên thứ rượu vang sang trọng và nổi tiếng khắp thế giới, hoa hướng dương vàng rực một góc trời, ngôi nhà thờ cổ già nua, con đường đầy tuyết phủ lấp lánh như dát kim cương khi ánh nắng ban mai rọi chiếu. Và gió tramontane - giống như mưa dầm xứ Huế hồn nhiên thổi, cồn cào da diết trong nỗi nhớ người đi... Điều đặc biệt là nhà văn miêu tả về những miền đất ấy gắn với yêu thương và kỷ niệm của tình yêu lớn đời chị - hai đứa con bé bỏng Bin và Hà. Vì thế cảnh vật, con người hiện lên như chị đang chụp lại còn bạn đọc đang xem một cuốn nhật kí sinh động bằng ảnh.
Đọc Làm dâu nước Pháp, ta bắt gặp những hình ảnh thấm đẫm hồn quê có thể làm rung động bất cứ trái tim nào. Một cánh cò trắng bay chấp chới trên đồng lúa xanh, một mái chùa cổ kính rêu phong thấp thoáng dưới tán cây cổ thụ, tiếng ếch nhái rộn ràng bên bờ ao hàng giậu, rặng tre rì rào xào xạc, ánh trăng non đầu tháng tưới đẫm hàng cau, hoa nhài thoang thoảng đưa hương trong gió... Là người sinh ra lớn lên và gắn bó với một làng quê yên bình không mấy xa Hà Nội, Hiệu Constant đã thổi tình yêu của mình vào từng nếp quê mộc mạc giản dị để rồi làm dậy lên trong lòng người đọc - nhất là những người xa xứ một nỗi hoài hương mà không phải một sớm một chiều đã vỗ về ngủ yên trong bộn bề cuộc sống.
Mỗi dịp Tết đến xuân về, sự nhạy cảm tinh tế và tấm lòng trắc ẩn của một người con gái “xa quê vời vợi” lại trào ra thành kỷ niệm. Chị nhớ về ngày Tết quê hương với màu vôi trắng bố quét trên tường nhà, mùi thơm ấm cúng mê hoặc của khói hương trầm ngày Tết, những món ăn được làm từ náo nức không khí cuối năm, các cụ bà áo dài nâu lên chùa... Đau đáu, thân thương nhất trong nỗi niềm xa quê của chị là hình ảnh người mẹ già hiền từ mắt đăm đắm nhìn ra đầu ngõ mong đứa con gái bé bỏng trở về bất ngờ từ trời Tây xa lơ xa lắc. Những câu văn của Lê Thị Hiệu đọc lên cũng nghẹn ngào nỗi nhớ. Từ cảnh đời riêng, chị đã nói hộ cảm xúc của biết bao người con xa xứ luôn khắc khoải trong lòng tiếng thì thầm vọng từ miền đất mẹ.
Hiện lên trong toàn bộ cuốn tự truyện của nhà văn là chân dung một người phụ nữ can đảm và giàu nghị lực. Là người con gái chân chất thôn quê ước mơ được đặt chân đến nước Pháp xa xôi, Lê Thị Hiệu cố gắng vượt qua mọi khó khăn thử thách. Chị đã nỗ lực không ngừng để có thể tiếp cận với một nền văn minh vào bậc nhất thế giới bằng chính thứ ngôn ngữ bản địa của họ. Ở Pháp, chị vừa chăm con nhỏ, vừa theo học tiếp ngành văn học so sánh ở Đại học Sorbonne. Đó là những tháng ngày gian nan đối với chị nhưng để rồi sau này thành quả mà chị đạt được - những cuốn sách dịch từ tiếng Pháp lần lượt được xuất bản - thật ngọt ngào. Chị học từ những người hàng xóm của gia đình, trình bày thẳng thắn với thầy cô chủ nhiệm về môn học mà chị chưa hiểu, trao đổi thư từ không biết mệt mỏi với nhà văn mà chị yêu mến... Mới thấy những người quanh ta là kho tri thức vô tận nếu ta đặt mình “Luôn là một học trò” (Han - San).
Trong Làm dâu nước Pháp, Hiệu Constant đã tôn vinh tình yêu - nguồn sáng kì diệu, nó đưa chị đến xứ sở huyền thoại từ ánh mắt màu xanh lục nhạt của một chàng trai gặp trên phố cổ Hà Nội. Sự thông minh dí dỏm hồn nhiên cũng vô cùng tự tin của một cô gái Việt Nam nhỏ nhắn đã khiến chàng trai từ bên kia bán cầu phải si mê và mong muốn chị sẽ làm mẹ của những đứa con mình. Theo tiếng gọi từ trái tim, chị dũng cảm đến với tình yêu - để yêu và được yêu thương. Với lối sống “Nhập gia tùy tục”, chị trở thành người con dâu ngoan nết, một người phụ nữ yêu chồng con. Người phụ nữ bé nhỏ ấy đã giữ gìn - tiếp nối nét dịu dàng, truyền thống trong cách dạy tiếng Việt cho con; đưa con về thăm quê ngoại cho dù miền quê ấy còn nghèo nàn lam lũ; thắp hương cho ông bà, tổ tiên; dạy cho con biết trân trọng quá khứ và học cách để yêu thương.
Sẽ thật đáng tiếc khi nói về nghị lực, phong cách sống của nhân vật Tôi trong cuốn tự truyện mà không nói về những nỗi đau trong cuộc đời chị đã phải trải qua. Bởi cuộc đời nếu chỉ có những thảm đỏ, con người dễ dàng ngẩng cao đầu. Còn với Lê Thị Hiệu, vững vàng sau những mất mát mới càng đáng được khâm phục trân trọng. Có lẽ vì thế chương cuối chị lắng đọng cảm xúc người đọc bằng nỗi buồn, nỗi đau mất người thân. Sự ra đi không bao giờ trở lại của người thân lấy đi ở chị biết bao nước mắt, nỗi đau đớn như bị bóp nghẹt và cả sự day dứt khi không thể làm tròn nghĩa tận. Tôi rất ám ảnh với câu nói của chị ở cuối chương 13: “Với tôi, tất cả những người thân yêu dù đã đi xa thì vẫn cứ sống mãi trong tim”. Bằng suy nghĩ này nhà văn đã đem đến cho người đọc một quan niệm sống hết sức nhân văn. Bởi ai cũng hiểu quy luật sinh tử là vô cùng khắc nghiệt với con người - và điều làm bạn trở lên bất tử là luôn trong trái tim người khác.
Đọc cuốn Làm dâu nước Pháp, trải nghiệm cùng hạnh phúc mà nhà văn nhận được đủ để người đọc ngưỡng mộ và suy ngẫm. Từ những lời tâm tình mộc mạc của nhà văn những triết lí sâu xa của cuộc đời trở thành thông điệp giản dị gửi tới bất cứ ai đang và sẽ bước trên con đường tìm kiếm hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực chỉ mang một phần nhỏ may mắn, còn lại phải do sự nỗ lực của chính bản thân mỗi người. Cuốn tự truyện là một lời đề nghị về cách sống cho không chỉ riêng ai: “Những gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim”.
L.T
(SH323/01-16)
Trong đội ngũ những người hoạt động văn nghệ tại Thừa Thiên Huế, bên cạnh các Hội chuyên ngành trực thuộc Hội Liên hiệp Văn học nghệ thuật (như Hội Nhà văn, Hội Mỹ thuật, Hội Âm nhạc…) có một tổ chức gọi là “Chi hội Nhà văn Việt Nam tại Thừa Thiên Huế”(CHNV).
Hà Khánh Linh xuất thân trong một gia đình khoa bảng nổi tiếng ở Huế. Tên khai sinh của chị là Nguyễn Khoa Như Ý. Năm 20 tuổi, đang học dở dự bị đại học Khoa Học Sài Gòn thì chị quyết định bỏ học để gia nhập quân Giải phóng. Từ đó cho đến khi nghỉ hưu chị đã từng đi dạy, làm phóng viên Đài phát thanh Giải phóng, Đài phát thanh Bình Trị Thiên, làm biên tập, Thư ký Tòa soạn rồi Phó tổng biên tập Tạp chí Sông Hương. Chị quen biết và giao tiếp khá rộng từ các vị quan chức đến các vị đại đức, linh mục, trí thức... cùng những năm tháng gian khổ ở chiến trường Trị Thiên, những chuyến đi thực tế ở Căm pu chia... đã giúp chị có một vốn sống hết sức phong phú.
Nhà thơ Lâm Thị Mỹ Dạ sinh ra và lớn lên bên bờ sông Kiến Giang thơ mộng. Nhưng tuổi thơ của chị chứa đầy buồn đau và nước mắt: Mẹ không có cửa nhà/ Em đứa trẻ vắng cha/ Như mầm cây trên đá/ Biết khi nào nở hoa? Nỗi tuyệt vọng cứ ám ảnh suốt cả tuổi thơ của chị. Trong một bài thơ đầu tay chị viết: Tuổi thơ tôi như ráng chiều đỏ lựng/ Hắt máu xuống dòng sông đen.
Trần Thùy Mai bắt đầu được các bạn trẻ yêu thích văn chương ở Huế biết đến khi chị đang học ở trường Đồng Khánh những năm trước giải phóng (1975). Tốt nghiệp vào loại xuất sắc, chị được giữ lại làm cán bộ giảng dạy ở trường đại học Sư phạm Huế. Dạy ở trường đại học Sư phạm Huế được một vài năm, chị chuyển sang làm công tác biên tập ở nhà xuất bản Thuận Hóa. Đây là một quyết định khá táo bạo và sáng suốt. Làm việc ở nhà xuất bản, chị có điều kiện viết lách hơn.
LÊ HUỲNH LÂM (Đọc Viết bên Hộ Thành hào - thơ Nguyên Quân -, Nxb Thuận Hoá, 2009)Giữa những đổ nát hoang tàn quá khứ và hiện tại, khi mà thang giá trị bị đảo lộn, những mảnh vỡ đang vung vãi mọi nơi, tác giả lại tìm đến Hộ Thành hào để nhìn ngắm cõi lòng đang hỗn hênh mọi thứ và như chợt nhận ra niềm hy vọng mỏng mảnh, anh đã Viết bên Hộ Thành hào.
HOÀNG DIỆP LẠCBất chợt giữa một ngày mưa gió, nhìn những hạt nước toé lên từ mặt đất như những đoá hoa mưa. Một loài hoa của ảo giác. Có thể trong tâm trạng như vậy, Lê Tấn Quỳnh chợt hỏi:Hoa vông vangCó hay không
ĐINH NAM KHƯƠNG(Thơ Tuyết Nga - NXB Hội Nhà văn 2002)
NGUYỄN VĂN HOA1. Cuối thế kỷ 20, tôi làm cuốn sách “Tuyển tập thơ văn xuôi Việt Nam và thế giới” cùng tiến sỹ Nguyễn Ngọc Thiện (Viện Văn học Việt Nam), trong tập sách này gồm phần học thuật và phần tuyển thơ Việt Nam và Thế giới. Phần thơ Việt có nhiều tác giả sinh sống ở Huế, ngẫu nhiên-tình cờ có hai nhà thơ có thơ trong tập này, đó là Hải Bằng và Hải Trung.
NGA LINH NGA1. Xuất bản mười hai tập thơ, mười hai tập văn xuôi, một tập nhạc; viết mười hai kịch bản phim chân dung, hai mươi lời bình cho các phim khác, biên soạn hai mươi tập nhạc... điều thật khó tin ở một người nổi tiếng rong chơi, thích cao đàm khái luận, thường không mấy khi vắng mặt nơi những cuộc rượu của đám văn nghệ Hà Thành như Nguyễn Thụy Kha.
L.T.S: Trong vài năm lại đây, ở Huế, chưa có tập sách nào ra đời lại gây được “hiệu ứng ngạc nhiên” cho bạn đọc như một hiện tượng ngoài tập Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa ấn hành vào dịp kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng Huế và Đà Nẵng vừa qua. Ngoài các bài viết giới thiệu, phê bình in trên nhiều tờ báo trung ương và địa phương, Sông Hương vẫn tiếp tục nhận được thêm các ý kiến cảm thụ về tập thơ này.Xin trân trọng giới thiệu cùng quý bạn đọc
NGUYỄN XUÂN HOÀNG (Đọc tập thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)
YÊN CHÂU (Đọc Thơ Trà My của Nguyễn Xuân Hoa)Giống như những cây xanh bói muộn bất ngờ cho một mùa hoa trái, thơ Nguyễn Xuân Hoa xuất hiện đột ngột như vậy. Anh không cho in rải rác đâu đó, cũng không đọc thơ ở những cuộc gặp gỡ bạn bè. Im lặng, đùng một cái cho ra hẳn một tập thơ. Thơ Trà My của nguyễn Xuân Hoa đã đến với bạn bè như vậy.
BÙI ĐỨC VINH (Nhân đọc tập thơ “Cho người tôi thương nhớ”-NXB Hội Nhà văn 2004)Có một chàng thi sĩ phong tình đi lang thang vô định trên nẻo đường mưa bay gió tạt, chợt lơ đãng nhận ra mình là kẻ bị tình yêu truy nã trong bài thơ “Nhận diện” anh đã tự thú với trái tim thổn thức của mình.
INRASARA (Đọc Mang, tập thơ của Phan Trung Thành, Nxb, Trẻ TP.Hồ Chí Minh, 2004.)Dòng Seine và cầu Mirabeau, cuộc tình với người tình. Sông đi và cầu ở lại, cuộc tình tan nhưng người tình thì ở lại. Mãi mãi ở lại, cùng nỗi buồn ở lại. Con sông nào đã xa nguồn Thì con sông đó sẽ buồn với tôi (Thơ Hoài Khanh)
THANH THIỆNBốn mùa yêu là tập thơ tình mang ý nghĩa "vật chứng" cho một biệt lập tâm hồn có tên là Lưu Ly. Người thơ này dường như luôn đắm mình trong giai điệu tình yêu muôn thuở giữa ba ngôi Trao - Nhận - Trả và đã chọn cách trả sòng phẳng nhất cho sự nhận của mình là trả vào thơ.
NGUYỄN VĂN HOA(Nhân đọc Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường)Tôi đã đọc nhiều tác phẩm của Hoàng Phủ Ngọc Tường và tôi cũng đã gặp ông trực tiếp đôi ba lần ở Huế và Hà Nội. Nhưng ấn tượng nhất là buổi hội ngộ của gia đình tôi với ông ở nhà nhà thơ Ngô Minh ở dốc Bến Ngự Huế.
HOÀNG VŨ THUẬT (Thơ Chất trụ của Nguyễn Hữu Hồng Minh- Nxb Thuận Hoá 2002)Nguyễn Hữu Hồng Minh không làm cái phép phù thuỷ đưa độc giả tới một không gian rắc rối. Quan niệm về thơ của anh được trình bày rất nghiêm túc qua bài “Chất trụ”, lấy tên cho tập thơ. Tôi rất đồng tình quan niệm này, không mới, nhưng không dễ làm người ta chấp nhận.
HOÀNG NGỌC HIẾN(Đọc Dòng sông Mía của Đào Thắng)
TRẦN THIÊN ĐẠOCứ suy theo nhan đề, thì chúng ta có thể xếp các trang Viết về bè bạn - Tập chân dung văn nghệ sĩ (NXB Hải Phòng, 2003) của Bùi Ngọc Tấn cùng một loại với mấy tập sách đã ra mắt bạn đọc vài ba năm nay.
NGÔ MINHDi chúc của Chủ tịch Hồ Chí Minh do BCH TW Đảng công bố trong ngày tang lễ Bác tại Quảng trường Ba Đình ngày 3-9-1969 (năm Kỷ Dậu) là một tác phẩm văn hóa lớn, thể hiện tình yêu Tổ Quốc, yêu nhân dân và nhân cách vĩ đại của Bác Hồ.