Làm dâu nước Pháp - cuốn tự truyện viết bằng trái tim

16:22 20/01/2016

LƯƠNG THÌN

Có những cuốn sách khi đọc ta như được dẫn dắt vào một thế giới huyền bí của tâm hồn, trái tim và khơi dậy lên bao khát khao mơ ước. Làm dâu nước Pháp của nữ nhà văn Hiệu Constant (Lê Thị Hiệu, Nxb. Phụ Nữ, 2014) là một cuốn tự truyện như thế.

Cuốn sách có 13 chương. Mỗi chương nói về một dấu ấn khác nhau trong cuộc đời người phụ nữ mà đam mê, cơ duyên và tình yêu đã đưa chị đến nước Pháp. Các sự kiện được xâu chuỗi với nhau trong một lối kể chuyện hồn nhiên dí dỏm hết sức chân thực. Nhà văn bộc bạch nỗi niềm và những trải nghiệm của mình với bạn đọc bằng ngôn từ giản dị mà đa thanh sắc, giọng điệu linh hoạt làm cho cách kể chuyện của chị trở nên rất cuốn hút.

Nhan đề cuốn tự truyện đưa người đọc vào một thế giới vừa gần, vừa xa. Gần là chuyện làm dâu. Bất kể người phụ nữ nào khi xuất giá theo chồng đều là đi làm dâu - mà nhà văn gọi một cách bông đùa là “Khoác áo sang nhà khác”. Xa là chuyện làm dâu không phải ở xứ mình mà là xứ người. Trước Hiệu Constant không phải chưa ai từng viết về chuyện đi làm dâu ngoại quốc, nhưng điều đáng trân trọng ở cuốn tự truyện này là nhân vật Tôi - tác giả - ngoài mang trong mình thân phận làm dâu con một gia đình người Pháp còn trở thành người mang sứ mệnh gắn kết hai nền văn hóa, hai dân tộc, hai miền đất trong yêu thương. Chị đã cố gắng bằng mọi khả năng để mình và nền văn hóa đã sinh thành ra mình hòa nhập nhưng không hòa tan trong mối quan hệ riêng - chung hài hòa.

Làm dâu nước Pháp mở ra trước mắt người đọc một chân trời mới. Theo bước chân nhà văn và gia đình nhỏ của chị, từng địa danh cụ thể dưới ngòi bút tài hoa lần lượt hiện ra trong thế giới tưởng tượng của người đọc. Từ kinh đô ánh sáng Pari đến Normandie, Touraine, Yonne... say đắm lòng bao lữ khách dạo chơi bằng văn chương. Thiên nhiên cảnh vật nước Pháp hiện lên tuyệt mĩ và tráng lệ với Mũi Trévignon - bãi biển với con sóng to gầm gào, muôn vàn cánh hoa đào vừa nở, những cánh đồng nho xanh mướt làm nên thứ rượu vang sang trọng và nổi tiếng khắp thế giới, hoa hướng dương vàng rực một góc trời, ngôi nhà thờ cổ già nua, con đường đầy tuyết phủ lấp lánh như dát kim cương khi ánh nắng ban mai rọi chiếu. Và gió tramontane - giống như mưa dầm xứ Huế hồn nhiên thổi, cồn cào da diết trong nỗi nhớ người đi... Điều đặc biệt là nhà văn miêu tả về những miền đất ấy gắn với yêu thương và kỷ niệm của tình yêu lớn đời chị - hai đứa con bé bỏng Bin và Hà. Vì thế cảnh vật, con người hiện lên như chị đang chụp lại còn bạn đọc đang xem một cuốn nhật kí sinh động bằng ảnh.

Đọc Làm dâu nước Pháp, ta bắt gặp những hình ảnh thấm đẫm hồn quê có thể làm rung động bất cứ trái tim nào. Một cánh cò trắng bay chấp chới trên đồng lúa xanh, một mái chùa cổ kính rêu phong thấp thoáng dưới tán cây cổ thụ, tiếng ếch nhái rộn ràng bên bờ ao hàng giậu, rặng tre rì rào xào xạc, ánh trăng non đầu tháng tưới đẫm hàng cau, hoa nhài thoang thoảng đưa hương trong gió... Là người sinh ra lớn lên và gắn bó với một làng quê yên bình không mấy xa Hà Nội, Hiệu Constant đã thổi tình yêu của mình vào từng nếp quê mộc mạc giản dị để rồi làm dậy lên trong lòng người đọc - nhất là những người xa xứ một nỗi hoài hương mà không phải một sớm một chiều đã vỗ về ngủ yên trong bộn bề cuộc sống.

Mỗi dịp Tết đến xuân về, sự nhạy cảm tinh tế và tấm lòng trắc ẩn của một người con gái “xa quê vời vợi” lại trào ra thành kỷ niệm. Chị nhớ về ngày Tết quê hương với màu vôi trắng bố quét trên tường nhà, mùi thơm ấm cúng mê hoặc của khói hương trầm ngày Tết, những món ăn được làm từ náo nức không khí cuối năm, các cụ bà áo dài nâu lên chùa... Đau đáu, thân thương nhất trong nỗi niềm xa quê của chị là hình ảnh người mẹ già hiền từ mắt đăm đắm nhìn ra đầu ngõ mong đứa con gái bé bỏng trở về bất ngờ từ trời Tây xa lơ xa lắc. Những câu văn của Lê Thị Hiệu đọc lên cũng nghẹn ngào nỗi nhớ. Từ cảnh đời riêng, chị đã nói hộ cảm xúc của biết bao người con xa xứ luôn khắc khoải trong lòng tiếng thì thầm vọng từ miền đất mẹ.

Hiện lên trong toàn bộ cuốn tự truyện của nhà văn là chân dung một người phụ nữ can đảm và giàu nghị lực. Là người con gái chân chất thôn quê ước mơ được đặt chân đến nước Pháp xa xôi, Lê Thị Hiệu cố gắng vượt qua mọi khó khăn thử thách. Chị đã nỗ lực không ngừng để có thể tiếp cận với một nền văn minh vào bậc nhất thế giới bằng chính thứ ngôn ngữ bản địa của họ. Ở Pháp, chị vừa chăm con nhỏ, vừa theo học tiếp ngành văn học so sánh ở Đại học Sorbonne. Đó là những tháng ngày gian nan đối với chị nhưng để rồi sau này thành quả mà chị đạt được - những cuốn sách dịch từ tiếng Pháp lần lượt được xuất bản - thật ngọt ngào. Chị học từ những người hàng xóm của gia đình, trình bày thẳng thắn với thầy cô chủ nhiệm về môn học mà chị chưa hiểu, trao đổi thư từ không biết mệt mỏi với nhà văn mà chị yêu mến... Mới thấy những người quanh ta là kho tri thức vô tận nếu ta đặt mình “Luôn là một học trò” (Han - San).

Trong Làm dâu nước Pháp, Hiệu Constant đã tôn vinh tình yêu - nguồn sáng kì diệu, nó đưa chị đến xứ sở huyền thoại từ ánh mắt màu xanh lục nhạt của một chàng trai gặp trên phố cổ Hà Nội. Sự thông minh dí dỏm hồn nhiên cũng vô cùng tự tin của một cô gái Việt Nam nhỏ nhắn đã khiến chàng trai từ bên kia bán cầu phải si mê và mong muốn chị sẽ làm mẹ của những đứa con mình. Theo tiếng gọi từ trái tim, chị dũng cảm đến với tình yêu - để yêu và được yêu thương. Với lối sống “Nhập gia tùy tục”, chị trở thành người con dâu ngoan nết, một người phụ nữ yêu chồng con. Người phụ nữ bé nhỏ ấy đã giữ gìn - tiếp nối nét dịu dàng, truyền thống trong cách dạy tiếng Việt cho con; đưa con về thăm quê ngoại cho dù miền quê ấy còn nghèo nàn lam lũ; thắp hương cho ông bà, tổ tiên; dạy cho con biết trân trọng quá khứ và học cách để yêu thương.

Sẽ thật đáng tiếc khi nói về nghị lực, phong cách sống của nhân vật Tôi trong cuốn tự truyện mà không nói về những nỗi đau trong cuộc đời chị đã phải trải qua. Bởi cuộc đời nếu chỉ có những thảm đỏ, con người dễ dàng ngẩng cao đầu. Còn với Lê Thị Hiệu, vững vàng sau những mất mát mới càng đáng được khâm phục trân trọng. Có lẽ vì thế chương cuối chị lắng đọng cảm xúc người đọc bằng nỗi buồn, nỗi đau mất người thân. Sự ra đi không bao giờ trở lại của người thân lấy đi ở chị biết bao nước mắt, nỗi đau đớn như bị bóp nghẹt và cả sự day dứt khi không thể làm tròn nghĩa tận. Tôi rất ám ảnh với câu nói của chị ở cuối chương 13: “Với tôi, tất cả những người thân yêu dù đã đi xa thì vẫn cứ sống mãi trong tim”. Bằng suy nghĩ này nhà văn đã đem đến cho người đọc một quan niệm sống hết sức nhân văn. Bởi ai cũng hiểu quy luật sinh tử là vô cùng khắc nghiệt với con người - và điều làm bạn trở lên bất tử là luôn trong trái tim người khác.

Đọc cuốn Làm dâu nước Pháp, trải nghiệm cùng hạnh phúc mà nhà văn nhận được đủ để người đọc ngưỡng mộ và suy ngẫm. Từ những lời tâm tình mộc mạc của nhà văn những triết lí sâu xa của cuộc đời trở thành thông điệp giản dị gửi tới bất cứ ai đang và sẽ bước trên con đường tìm kiếm hạnh phúc. Hạnh phúc đích thực chỉ mang một phần nhỏ may mắn, còn lại phải do sự nỗ lực của chính bản thân mỗi người. Cuốn tự truyện là một lời đề nghị về cách sống cho không chỉ riêng ai: “Những gì xuất phát từ trái tim sẽ đi đến trái tim”.

L.T
(SH323/01-16)




 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Nguyễn Khắc Phê quê ở Hương Sơn, Hà Tĩnh. Anh xuất thân trong một gia đình trí thức. Bố anh từng đậu Hoàng Giáp năm 19 tuổi. Các anh trai đều là bác sĩ, giáo sư, tiến sĩ nổi tiếng như Nguyễn Khắc Viện, Nguyễn Khắc Dương, Nguyễn Khắc Phi... Có người nói vui “Nguyễn Khắc Phê con nhà quan tính nhà lính”.

  • VĂN CẦM HẢI(Đọc “Ngôi nhà vắng giữa bến sông”, Tập truyện ngắn của Nguyễn Kiên - Nxb Hội Nhà văn, 2004)

  • NGUYỄN QUANG SÁNGMấy năm gần đây, dân ta đi nước ngoài càng ngày càng nhiều, đi hội nghị quốc tế, đi học, đi làm ăn, đi chơi, việc xuất ngoại đã trở nên bình thường. Đi đâu? Đi Mỹ, đi Pháp, đi Trung Quốc, Đài Loan, Singapore, Hàn Quốc... Nhà văn Văn Cầm Hải cũng đi, chuyến đi này của anh, anh không đi những nơi tôi kể trên, anh đi Tây Tạng, rất lạ đối với tôi.

  • HÀ KHÁNH LINHDân tộc ta có hơn bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, đã xảy ra nhiều cuộc nội loạn ngoại xâm, nhiều thế hệ người Việt Nam đã cầm vũ khí ra trận giết giặc cứu nước, nhưng mãi đến cuối thế kỷ 20 những chàng trai nước Việt mới phải đi giữ nước từ xa, mới đi giữ nước mà mang trong lòng nỗi nhớ nước như tứ thơ của Phạm Sĩ Sáu.

  • LÊ VĂN THÊSau sáu năm (kể từ 2002) nhà văn Cao Hạnh được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam, (cuối năm 2008); Hội Văn học nghệ thuật Quảng Trị mới có thêm một nhà văn được kết nạp. Đó là Văn Xương.

  • NGÔ MINHTrong đợt đi Trại viết ở Khu du lịch nước nóng Thanh Tân, anh em văn nghệ chúng tôi được huyện Phong Điền cho đi dạo phá Tam Giang một ngày. Nhà nghiên cứu văn hóa dân gian Nguyễn Thế là người dẫn đường. Anh dân sở tại, thuộc lòng từng tấc đất cổ xưa của huyện.

  • PHẠM PHÚ PHONG…Làng em đây, núi rừng Trung Việt cũng là đây/Xưa kia đã hùng dũng đánh Tây/Giờ lại hiên ngang xây thành chống Mỹ/Đường Trường Sơn là đường chân lý/Đã cùng quê em kết nghĩa hẹn hò… (Quê em, 1971)

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGKể từ tập thơ đầu tay (Phía nắng lên in năm 1985), Huyền thoại Cửa Tùng (*) là tập thơ thứ mười (và là tập sách thứ 17) của Ngô Minh đã ra mắt công chúng. Dù nghề làm báo có chi phối đôi chút thì giờ của anh, có thể nói chắc rằng Ngô Minh đã đi với thơ gần chẵn hai mươi năm, và thực sự đã trở thành người bạn cố tri của thơ, giữa lúc mà những đồng nghiệp khác của anh hoặc do quá nghèo đói, hoặc do đã giàu có lên, đều đã từ giã “nghề” làm thơ.

  • Võ Quê được nhiều người biết đến khi anh 19 tuổi với phong trào xuống đường của học sinh, sinh viên các đô thị miền Nam (1966). Lúc đó, anh ở trong Ban cán sự Sinh viên, học sinh Huế. Võ Quê hoạt động hết sức nhiệt tình, năng nổ bất chấp nguy hiểm với lòng yêu nước nồng nàn và niềm tin sắt đá vào chính nghĩa.

  • PHẠM PHÚ PHONGThỉnh thoảng có thấy thơ Đinh Lăng xuất hiện trên các báo và tạp chí. Một chút Hoang tưởng mùa đông, một Chút tình với Huế, một chuyến Về lại miền quê, một lần Đối diện với nỗi buồn, hoặc cảm xúc trước một Chiếc lá rụng về đêm hay một Sớm mai thức dậy... Với một giọng điệu chân thành, giản đơn đôi khi đến mức thật thà, nhưng dễ ghi lại ấn tượng trong lòng người đọc.

  • ĐẶNG TIẾNNhà xuất bản Trẻ, phối hợp với Công ty Văn hoá Phương Nam trong 2002 đã nhẩn nha ấn hành Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường, trọn bộ bốn cuốn. Sách in đẹp, trên giấy láng, trình bày trang nhã, bìa cứng, đựng trong hộp giấy cứng.

  • NGUYỄN ĐỨC TÙNG(Tiếp theo Sông Hương số 244 tháng 6-2009)Mến tặng các nhà văn Tô Nhuận Vỹ, Khánh Phương, Trần Thị Trường, cháuDiệu Linh, và những người bạn khác,lớn lên trong những hoàn cảnh khác.

  • NGUYỄN THỤY KHANhà thơ Quang Dũng đã tạ thế tròn 15 năm. Người lính Tây Tiến tài hoa xưa ấy chẳng những để lại cho cuộc đời bao bài thơ hay với nhịp thơ, thi ảnh rất lạ như "Tây Tiến", "Mắt người Sơn Tây"... và bao nhiêu áng văn xuôi ấn tượng, mà còn là một họa sĩ nghiệp dư với màu xanh biểu hiện trong từng khung vải. Nhưng có lẽ ngoài những đồng đội Tây Tiến của ông, ít ai ở đời lại có thể biết Quang Dũng từng viết bài hát khi cảm xúc trên đỉnh Ba Vì - quả núi như chính tầm vóc của ông trong thi ca Việt Nam hiện đại. Bài hát duy nhất này của Quang Dũng được đặt tên là "Ba Vì mờ cao".

  • HOÀNG KIM DUNG      (Đọc trường ca Lửa mùa hong áo của Lê Thị Mây)Nhà thơ Lê Thị Mây đã có nhiều tập thơ được xuất bản như: Những mùa trăng mong chờ, Dịu dàng, Tặng riêng một người, Giấc mơ thiếu phụ, Du ca cây lựu tình, Khúc hát buổi tối, v.v... Chị còn viết văn xuôi với các tập  truyện: Trăng trên cát, Bìa cây gió thắm, Huyết ngọc, Phố còn hoa cưới v.v...Nhưng say mê tâm huyết nhất với chị vẫn là thơ. Gần đây tập trường ca Lửa mùa hong áo của nhà thơ Lê Thị Mây đã được nhà xuất bản Quân đội nhân dân ấn hành. (quý IV. 2003)

  • PHẠM PHÚ PHONGTrước khi có Hoa nắng hoa mưa (NXB Thanh Niên, 2001), Hà Huy Hoàng đã có tập Một nắng hai sương (NXB Văn Nghệ TP Hồ Chí minh, 1998) và hai tập in chung là Một khúc sông Trà (NXB Văn nghệ TP Hồ Chí Minh) và Buồn qua bóng đuổi (NXB Văn hoá Dân tộc, 2000). Đã có thơ đăng và giới thiệu trên các báo Văn nghệ Trẻ, Văn nghệ TP Hồ Chí Minh, Lao động, Người lao động, các tập san, tạp chí Thời văn, Tiểu thuyết thứ bảy, Cẩm thành hoặc đăng trong các tuyển thơ như Hạ trong thi ca (1994), Lục bát tình (1997), Thời áo trắng (1997), Ơn thầy (1997), Lục bát xuân ca (1999)...

  • Hoàng Phủ Ngọc Tường. Sinh ngày 9 tháng 9 năm 1937. Quê ở Triệu Long, Triệu Hải, Quảng Trị. Năm 1960, tốt nghiệp khóa I, ban Việt Hán, Trường đại học Sư phạm Sài Gòn. Năm 1964, nhận bằng cử nhân triết Đại học Văn khoa Huế. Năm 1960 - 1966, dạy trường Quốc Học Huế. Từng tham gia phong trào học sinh, sinh viên và giáo chức chống Mỹ - ngụy đòi độc lập thống nhất Tổ quốc. Năm 1966 - 1975, nhà văn thoát li lên chiến khu, hoạt động ở chiến trường Trị Thiên. Sau khi nước nhà thống nhất, từng là Chủ tịch Hội Văn nghệ Quảng Trị, Tổng biên tập Tạp chí Cửa Việt.

  • ANH DŨNGLTS:  Kết hợp tin học với Hán Nôm là việc làm khó, càng khó hơn đối với Phan Anh Dũng - một người bị khuyết tật khiếm thính do tai nạn từ thuở còn bé thơ. Bằng nghị lực và trí tuệ, anh đã theo học, tốt nghiệp cử nhân vật lý lý thuyết trường Đại học Khoa học Huế và thành công trong việc nghiên cứu xây dựng hoàn chỉnh bộ Phần mềm Hán Nôm độc lập, được giải thưởng trong cuộc thi trí tuệ Việt Nam năm 2001.Sông Hương xin giới thiệu anh với tư cách là một công tác viên mới.

  • SƠN TÙNGLTS: Trong quá trình sưu tầm, tuyển chọn bài cho tập thơ Dạ thưa Xứ Huế - một công trình thơ Huế thế kỷ XX, chúng tôi nhận thấy rằng, hầu hết các nhà thơ lớn đương thời khắp cả nước đều tới Huế và đều có cảm tác thơ. Điều này, khiến chúng tôi liên tưởng đến Bác Hồ. Bác không những là Anh hùng giải phóng dân tộc, là danh nhân văn hoá thế giới mà còn là một nhà thơ lớn. Các nhà thơ lớn thường bộc lộ năng khiếu của mình rất sớm, thậm chí từ khi còn thơ ấu. Vậy, từ thời niên thiếu (Thời niên thiếu của Bác Hồ phần lớn là ở Huế) Bác Hồ có làm thơ không?Những thắc mắc của chúng tôi được nhà văn Sơn Tùng - Một chuyên gia về Bác Hồ - khẳng định là có và ông đã kể lại việc đó bằng “ngôn ngữ sự kiện” với những nhân chứng, vật chứng lịch sử đầy sức thuyết phục.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊAnh Hoài Nguyên, người bạn chiến đấu của nhà văn Thái Vũ (tức Bùi Quang Đoài) từ thời kháng chiến chống Pháp, vui vẻ gọi điện thoại cho tôi: “Thái Vũ vừa in xong TUYỂN TẬP đó!...” Nhà văn Thái Vũ từng được bạn đọc biết đến với những bộ tiểu thuyết lịch sử đồ sộ như “Cờ nghĩa Ba Đình” (2 tập - 1100 trang), bộ ba “Biến động - Giặc Chày Vôi”, “Thất thủ kinh đô Huế 1885”, “Những ngày Cần Vương” (1200 trang), “Thành Thái, người điên đầu thế kỷ” (350 trang), “Trần Hưng Đạo - Thế trận những dòng sông” (300 trang), “Tình sử Mỵ Châu” (300 trang)... Toàn những sách dày cộp, không biết ông làm “tuyển tập” bằng cách nào?

  • MINH QUANG                Trời tròn lưng bánh tét                Đất vuông lòng bánh chưng                Dân nghèo thương ngày Tết                Gói đất trời rưng rưng...