Lá cây thuộc bài

10:20 22/03/2010
TRẦN THỊ HIỆPChập choạng tối có lệnh rút. Đây là lần đầu tiên sau ba ngày chiến đấu đơn độc trong lòng địch, chúng tôi mới liên lạc được với đồng đội và thật thất vọng, mệnh lệnh không phải giục xốc tới mà rút lui.

Minh họa: Ngô Lan Hương

Chúng tôi, bốn đứa còn lại đào cái huyệt như cái hố cá nhân, chôn Lương. Lương là thằng dễ thương nhất, bạn chiến đấu và kể cả bạn ngoài đời, giờ đây nó đã ngủ giấc vô cùng, ngủ như đá nằm trong lòng đất giấc miên viễn. Ai có đào hầm rồi lấp lại mới thấy, dù là chất đất gì đi nữa, số đất đào lên khó lòng nén xuống cho hết. Không để cho địch và người chủ ngôi nhà này khám phá ra nơi mai táng, đất dư mang ra vườn rải đều. Cũng may sau ba ngày đánh nhau ác liệt nơi nào cũng có đổ vỡ, vôi vữa tung tóe khắp nơi. Dù làm cách gì cũng thấy chỗ ấy đất có vẻ mới và khang khác thế nào. Tôi nói ý này, thằng Thịnh bảo mầy tưởng tượng hão, ai biết được. Chúng tôi phải lấy cỏ rác, lá khô, lá vàng và một ít vôi gạch vụn trải một lớp, hi vọng vài ngày sau, nếu có mưa thì khó mà phát hiện nơi ấy có một con người nằm. Mộ không nấm rất dễ thất lạc, nhưng chúng tôi tin chắc một câu chuyện đau thương sâu sắc như thế này làm sao quên được? Chỗ hắn nằm là trung điểm gốc khế và cái giếng, phía sau ngôi nhà hai tầng đoạn giữa con đường Lữ Gia, chạy ven theo phía tây thành phố Nha Trang.

Đêm ba mươi tết Mậu Thân, chúng tôi xuất phát từ căn cứ Đồng Bò, đi dọc con đường mòn dưới chân mấy ngọn núi đất nhấp nhô giữa một vùng đất thấp ngập mặn. Vùng đất này rất thấp, mùa lụt nào cũng ngập, nước biển tràn vào không cây cối gì mọc được, rất trống trải, nhưng lại rất bất ngờ đối với địch. Đoạn phía nam người ta gọi là Đồng Muối. Chúng tôi thâm nhập thành phố Nha Trang bằng con đường chọc vào sườn thành phố này. Các mũi tiến công từ nhiều hướng đã thâm nhập sâu vào nội thành, súng nổ ran khắp nơi. Được tin cánh phía bắc đã lập công đầu. Cánh này băng qua một nhánh sông cầu Hà Ra lên đường Nguyễn Bỉnh Khiêm đánh thẳng vào hông dinh tỉnh trưởng, bọn địch đã bỏ chạy. Cánh phía tây của chúng tôi có một đơn vị đã lập chiến công ngay từ những phút đầu, tiến chiếm được đài phát thanh, cái miệng om sòm của địch ở đầu bắc cách chỗ chúng tôi chừng cây số. Nhóm tôi, chỉ hơn trung đội bị chận lại nơi đây, trong số này có bán tiểu đội gồm năm người của tôi, đã hi sinh mất một. Lương hi sinh lúc băng qua con đường, hắn chạy rất nhanh cạnh tôi, chỉ còn một bước chân nữa là đến chỗ an toàn, tôi thấy nó ngã, tưởng nó vấp, tôi thét: “Chạy đi!” Nó yên lặng, vào chỗ nấp tôi kêu thêm mấy lần nữa, nó vẫn nằm yên. Trời ơi nó bị bắn gục, sau này thấy đạn trúng vai xuyên qua ngực, hi sinh ngay. Chúng tôi mấy thằng còn sống liều mạng kéo hắn vào nhà, đạn thép cày trên đá mặt đường sáng lòa, lạ qúa thế mà chẳng có đứa nào bị thương, chắc là nhờ vong hồn hắn phù hộ. Từ đó hoàn toàn mất liên lạc. Ba ngày qua chúng tôi chiến đấu đơn độc. Chúng tôi có bản đồ nhưng đây là lần đầu tiiên đến một thành phố lạ, hoàn toàn mù mịt về điểm đứng của mình, lại chẳng nhận thêm lệnh nào, không biết phải đi về đâu, phải làm gì. Chung quanh súng nổ khắp nơi. Mới ló đầu ra đã bị bọn địch đóng ở cuối đường quạt lên. Nghe tiếng nổ biết mấy khẩu M 16, có cả đại liên M 60. Bọn chúng đặt điểm kháng cự cuối con đường đầu kia, kiểm soát cả đoạn đường thẳng này. Không diệt được ổ súng ấy, sẽ không làm sao thoát khỏi ngôi nhà này và khó lòng đưa Lương về căn cứ. Đã ba ngày qua, hơn 70 giờ rồi, xác bắt đầu hủy, ruồi nhặng đã vo ve. Chúng tôi đành chôn bạn ngay trong lòng địch, hi vọng sau ngày chiến thắng, hòa bình sẽ đem hắn về quê hương.

Chưa biết phải xử trí sao, chúng tôi được lệnh rút. Chúng tôi tính, phải đợi bên ngoài trời thực tối mới thoát ra khỏi cái căn nhà quỉ ám này. Mấy ngày qua địch biết căn nhà chúng tôi cố thủ, thôi thì đủ thứ đạn lớn nhỏ trút lên. Cái gì nhô ra chúng bắn ngay. Khu vực này mấy ngày qua chìm ngập trong lửa đạn, song điện không bị cắt, đó là ý đồ của địch, chúng muốn có ánh sáng để kiểm soát con đường này tránh cho ta di chuyển, tiếp tế, chuyển thương binh tử sĩ, và rút lui. Rất khó băng ngang qua 20 mét đường nhựa trống trải sinh tử sang phía bên kia, chuồn ra cánh đồng. Thằng Trịnh leo lên gác đẩy cánh cửa kính ra dùng cửa làm gương quan sát cuối đường đầu kia. Hắn chưa nhìn thấy gì cả thì xoảng, kính bị bắn vỡ, một mảnh kính vỡ ghim vào má, máu chảy ròng ròng. Như thế có nghĩa là bao nhiêu họng súng, bao nhiêu con mắt thù nhìn chăm chăm vào căn nhà này, nhất cử nhất động của chúng tôi chúng đều theo dõi. Tôi có cách khác, tôi nhặt một mảnh kính nhỏ, buột vào đầu cây gậy đưa ra quan sát phía đầu đường. Chiếc gương soi rất nhỏ, hình đa giác, cỡ nửa bàn tay vừa mới đưa ra đã bị một vài viên đạn bay qua cheo chéo. Rất may nhờ nó nhỏ quá và ở xa nên địch không bắn trúng. Chỉ cần vài giây tôi cũng kịp nhận ra nơi bọn địch bố trí. Lạ thật, nơi ấy tối thui, không đèn đóm gì cả, trong khi đó đoạn đường này lại sáng trưng. Sau nghĩ ra mới biết bọn địch rất tinh quái, nhiều kinh nghiệm chiến đấu. Chúng bắn bể tất cả những bóng đèn sáng ở phía ta. Tôi nghĩ muốn băng qua khúc đường này cũng phải làm như chúng thôi. Tôi leo lên gác bắn vỡ được hai chiếc bóng điện đường, phía bên này đường. Còn những bóng khác ở xa quá không bắn bể được. Bắn ba phát không trúng. Thằng Hoài ở dưới nhà gọi với lên: “Xa quá bắn không trúng đâu, phí đạn!” Nếu không tắt được mấy ngọn đèn ấy thì chúng tôi rất khó, phía sau còn sáng, khi băng qua đường sẽ là những cái bóng đen hiện rất rõ trên cái phông sáng, làm bia cho địch nhắm. Nhưng biết làm thế nào, phải làm cho mất điện. Đức nói: “Muốn có bóng tối, chỉ có cách bắn đứt dây điện. Tôi nhìn lên, đêm ba mươi trời tối đen như mực, nhờ mấy bóng đèn còn lại, chăm chú lắm thì mới nhận ra nhưng sợi dây điện là những sọc đen mờ mờ. Thế nhưng khi nhìn vào súng, từ lỗ chiếu môn đến đỉnh đầu ruồi, không thấy gì cả. Đành bỏ ý định bắn đứt dây điện, chỉ còn cách phá hỏng lưới điện chốn này. Chúng tôi lấy chất nổ TNT, quấn lại trong chiếc tất nhà binh, ở trong nhà dùng sào đẩy ra cột điện cạnh nhà, cho nổ. Cả một vùng rộng lớn chìm trong bóng tối.

Từ khi điện tắt, địch biết phía ta sắp sửa rút. Chúng bắn rất rát, đạn thép cày trên đá vạch sáng vun vút lướt qua, chúng thay nhau bắn cầm canh. Ngôi nhà chúng tôi đang chiếm giữ là nhà dân, một gia đình trung lưu, không hiểu vì sao tôi nghĩ họ ở trong ngành giáo dục. Trước khi đi kháng chiến gia đình tôi cũng như thế này. Có bàn học đầy vết mực, có bảng đen phấn trắng. Đúng là một cuộc sống hiền hòa, không biết họ đi đâu, có được an toàn hay không? Trong nhà còn nguyên vật dụng sắm tết. Chúng tôi không đụng đến, nằm đất, nấu cơm bằng nồi niêu của mình. Trong nhà vào dịp tết không thiếu thức ăn và đủ vật dụng cho chúng tôi sống thêm nhiều ngày nơi đây nữa. Ban đêm nằm trong nhà áp tai vào tường nghe tiếng địch dùng búa tạ phá tường, tiếng động trầm trầm. Càng lúc tiếng đập phá càng gần. Có lẽ chúng tiến chỉ còn cách chúng tôi ba căn. Tiếng động dễ sợ như tiếng búa đóng nắp quan tài.


Lệnh trên cho rút là hợp lí. Chúng tôi một đơn vị nhỏ, toàn mấy thằng con trai nhà quê xứ Bắc, không nắm được một tí gì về vùng này, bị cô lập ở giữa một biển người xa lạ, thù địch. Đây chỉ là một trận thử lửa để chứng tỏ cho cả thế giới biết rằng nếu muốn quân ta cũng có thể hạ sơn dạo chơi giữa lòng thành phố của chúng được.

Chúng tôi bàn, cả bốn đứa phải nhanh chóng thoát ra một lúc. Trang bị thật gọn nhẹ, bỏ lại mọi thứ không cần thiết, thắt lại quai dép, buộc ba lô, tư thế sẵn sàng kéo nhau tới gần cửa ra vào. Hẹn xuất phát như vận động viện chạy cự li ngắn. Tôi tính, phải nuốt 20 mét đường sinh tử này từ hai đến ba giây, khoảng cách chúng thay băng đạn, không được chậm hơn. Loạt đạn trước sắp dứt, tôi hô: “Chạy!”. Cả bốn lao vào chỗ núp bên kia đường đứng lại thở một hơi rồi mới nghe loạt súng thứ hai. Bọn địch không đủ thời gian lắp băng khác. Chúng tôi quay lại nhìn căn nhà phía bên kia đường, nơi đã che chở cho chúng tôi trong mấy ngày qua, và hiện nay bạn tôi đang còn nằm lại. Sau đó chúng tôi thoát khỏi thành phố nhanh chóng, tìm lại được đơn vị và trở lại căn cứ không mấy khó khăn.

Tôi chưa thấy ai ham học như Lương. Ba lô hắn luôn luôn có sách giáo khoa. Hắn nói học ôn thực kĩ để khi hết chiến tranh trở về học lại đại học. Hắn sợ bỏ bài vở lâu quá, sau này lớn tuổi khó học. Thằng này ngây thơ hết chỗ nói. Hắn tưởng lên Trường Sơn vào Nam đánh nhau với bọn Mỹ giống như đi chơi, có được sự yên ổn để ôn bài vở. Cuộc chiến cuốn hút chúng tôi đảo lộn, chà xát như cát bờ biển bị sóng vỗ. Làm gì có giây phút yên ổn để tĩnh tâm học hành, với lại sống nay chết mai, ai tính chuyện lâu dài. Tội nghiệp, phải khó nhọc lắm mới mang và bảo vệ được mấy quyển sách dày và nặng như đá, vượt Trường Sơn nắng lửa mưa dầm vào một tỉnh miền Nam trung phần này. Cái ba lô của hắn nặng gấp hai lần của tôi. Ai có đi đường trường mới biết cái gì hơi nặng một chút cũng muốn vất. Đến nỗi mấy cái hạt nút áo tôi còn muốn cắt bớt đi cho nhẹ, thế mà hắn mang theo cả lô sách vở. Sách nước ngoài in trên thứ giấy đặc biệt, dày, trắng, láng và rất nặng. Quyển sách nho nhỏ không dưới hai cân. Bây giờ thì khỏe rồi, cái ba lô, hành trang đi đánh giặc và đi học không còn hành hạ hắn, đè nặng lên đôi vai khẳng kheo, bộ ngực trắng trẻo lộ xương sống xương sườn của thằng con trai hai mươi mốt tuổi ốm o và yếu đuối như con gái nữa. Lúc chôn hắn chúng tôi đặt mấy quyển sách quanh cu cậu, có thằng khóc còn hài hước: “Sướng nhé, xuống dưới đó tha hồ mà ôn tập!”

Có lần tôi vô tình mở một quyển sách ra, thấy bên trong có ép một chiếc lá khô, kiểu học trò ép hoa lá kỉ niệm trong lưu bút ngày xanh. Tôi hỏi đùa: “Kỉ niệm một cuộc tình của mầy phải không? “Hắn lắc đầu nói: “Không phải. đó là thứ lá cây thuộc bài. Học trò nhà quê đứa nào cũng tin ép lá cây này trong vở, học bài rất mau thuộc và lâu quên. Lên Trường Sơn tao thấy loại cây này rất nhiều. Tao hái một mớ hạt hết chiến tranh đem về gieo quanh vườn trường cấp một cho bọn học trò hái ép trong vở...” Lần đầu tiên tôi nghe chuyện này. Tôi cười thầm, cho đó là chuyện vớ vẩn. Phi thức tế, không khoa học, thuộc loại mê tín dị đoan. Hắn một thằng sinh viên học khoa học, luôn luôn đầu lớp, trưởng thành và già dặn như người lớn mà tin cũng lạ thực.

Sau này thằng Hiền đi phép về Bắc, hắn với Lương ở cùng một xã, chúng tôi nhờ hắn mang kỉ vật và báo tin Lương hi sinh. Hiền cứ cằn nhằn mãi: “Tại sao không báo tin bằng quân bưu lại bắt tao làm công việc khó khăn này? Cho tao lao vào lửa đạn còn hơn... khó quá, tao sợ lắm...” Sau động viên mãi nó mới chịu, nhưng không vui. Lúc trở lại đơn vị nó kể:

- Kì dị ma quái lắm chúng mầy ơi!

- Sao?

- Bước vô nhà hắn, mới thấy mặt tao thì cả nhà òa khóc! Tao không cần phải báo tin, chỉ tường thuật sự việc... Mẹ nó nói, lúc nào hòa bình đến đón bà vào Nam đem nó trở về Bắc hương khói.

Sau hòa bình, ai cũng có công việc quan trọng riêng, phải mấy năm sau chúng tôi mới đến đón mẹ Lương vô Nam. Bây giờ được hiên ngang giữa phố xá đông người, dưới ánh mặt trời, thực đáng kiêu hãnh! Thành phố này đông vui và sầm uất hơn trước nhiều. Thật đúng với lời bài hát “Từ trận đánh hôm nay ta xây lại bằng mười” Nhà cửa phố xá mở mang to đẹp. Tôi hồi tưởng lại tết Mậu Thân năm 68, buổi chiều trước khi xuất kích đánh vào thành phố, tại một vạt rừng thưa, chúng tôi được phổ biến thêm một lần nữa bản đồ Nha Trang. Đây là tấm bản đồ của bọn Mỹ phát cho lính ngụy do ta thu được, thật đúng là loại bản đồ quân sự, nghe nói chúng cập nhật hàng năm. Bản đồ in rất rõ và có nhiều chi tiết, đến nỗi một cái nhà bếp, cái chuồng lợn cũng thấy ghi chú. Con đường mà chúng tôi tiếp cận và băng qua tiến chiếm Nha Trang là một con đường mới mở nằm ở phía tây thành phố, đường tiếp cận với một vùng gọi là Đồng Nai, đồng tiếp giáp với núi thấp, vào sâu là vùng núi Đồng Bò, một căn cứ quan trọng. Lâu nay chúng tôi học trên sa bàn đã nhẵn địa hình địa vật vùng này. Chúng tôi ghi nhớ tên con đường là Lữ Gia. Giải phóng rồi cách mạng làm chủ đất nước, một loạt danh nhân thuộc thế hệ cũ không còn hợp thời nữa bị bỏ đi, thay vào tên mới. Lữ Gia ngày trước đổi thành Lê Hồng Phong.

Lạ quá, chúng tôi nghĩ đúng là con đường ấy, thế nhưng giờ đây nó khác xa cái lúc chúng tôi băng qua và băng về trong đêm đầy ánh lửa đạn. Cái nhà ngày trước chúng tôi cố thủ đánh nhau với địch ba ngày đã bị phá. Nơi ấy người ta xây dựng lên ngôi trường cấp một. Chúng tôi vẫn còn hoài nghi, đi vào xem, quả đúng là đây. Cây khế và cái giếng không thể lầm lẫn được. Chỉ có điều mảnh đất chúng tôi chôn Lương giờ đây là một khu vườn hoa.

Giờ đó học sinh đã ra về, còn lại một ông lão làm bảo vệ đang ở ngaòi vườn làm cỏ. Ông lão tưởng chúng tôi là khách tham quan, chào hỏi qua loa xong vẫn ngồi xuống nhổ cỏ. Tôi làm quen: “Chiều rồi nghỉ tay uống nước đi chớ bác Hai?” Ông lão vẫn không chịu dừng tay nhổ cỏ, nói như phân bua: “Cây cỏ gì lạ quá... nhổ mãi không hết?...”

Tôi hỏi:

- Cây cỏ gì?

Ông lão nói:

- Hoa trồng chăm sóc tưới nước thì không chịu tươi tốt mà cái thứ cây cỏ gì lạ quá, cuốc bao nhiêu, dẫy bao nhiêu cũng cứ mọc. Có khi tức mình tôi nhổ cả gốc rễ lên, ai ngờ mấy ngày sau chúng lại mọc tràn lan, chiếm hết phân tro.

Tôi hỏi lại một lần nữa:

- Cỏ gì đó bác Hai?

- Thứ cây này không có tên, chỉ nghe bọn học trò gọi là “cây thuộc bài”. Đứa nào cũng hái lá ép trong vở, tin nhờ đó học bài mau thuộc. Vùng này xưa không có, sao không biết gần đây nó mọc ghê quá...

Tôi giật mình chợt nhớ đến lần mở sách ra thấy ép lá cây học thuộc bài, tôi lẩm bẩm: “À thì ra lá cây thuộc bài”. Ông lão làm vườn: “Ông cũng biết loại lá cây này sao?” Tôi nói:

- Học sinh nào cũng biết, cũng tin. Thuở nhỏ tôi cũng làm thế...

Tôi chợt nhớ lại ngày trước Lương từng nói đã hái hạt cây loại này tính đêm về quê gieo. Hôm chúng tôi chôn, có thể trong áo quần hắn còn vương vải loại hạt cây này, giờ được dịp phát triển đúng với ý định của hắn lúc còn ở Trường Sơn, chỉ khác ngôi trường này không phải là quê hương thôi. Trong vườn có nhiều luống hoa hồng. Tôi quan sát thấy ngay trên nơi chôn nó có một khóm hồng đỏ thắm, cánh hoa sáng lên gương. Tôi đến bên mân mê cánh hồng, ông lão nói: “Lạ lắm, trước nó là gốc hồng bạch sao bứng lên trồng nơi ấy lại hóa thành hồng đỏ thắm?” Tôi thì tôi hiểu...

Chúng tôi bàn bạc với ban giám hiệu. Họ dành cho gia đình mọi sự giúp đỡ. Hôm sau chúng tôi thuê người bốc mộ. Hiệu trưởng cho học sinh nghỉ học, không hiểu sao có mấy đứa bé hay tin tới xem, đuổi mãi không chịu đi.

Khi người làm công giơ chiếc cuốc lên tính bổ xuống gốc hồng thì bà mẹ Lương hét lên:

- Dừng lại! Để bứng bụi hồng sang trồng nơi khác.

Một lúc sau bà lại đổi ý, nói:

- Thôi không bốc nữa, để em nó nằm lại trên đất học này cũng được. Khi còn sống nó là thằng rất hiếu học. Buổi trưa học quên cả ăn cơm. Tối lại lên gác chong đèn ngồi học quên cả muỗi đốt...

Tôi tính kể lại chuyện Lương đem sách vở lên Trường Sơn ôn bài, sau thấy kỉ niệm đó đau xót quá, không kể. Mẹ Lương tiếp: “Em nó còn rất mê trồng cây. Giờ đây nó được an nghỉ giữa chốn học đường. Ngày ngày được nghe tiếng trẻ con học bài, tiếng chơi đùa của bọn trẻ con. Mỗi sáng được thức dậy trong hương hồng thơm ngát, còn đâu bằng? Đất nước độc lập thống nhất rồi, đâu chẳng là quê hương?”

T.T.H
(133/03-2000)





 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • HOA NGÕ HẠNHHọ Nguyễn ở Trung Lộc quê gốc huyện Lôi Dương, phủ Thọ Xuân, Thanh Hóa. Gia phả ghi rõ, ông tổ của dòng họ theo chân Chánh đô An phủ sứ Phạm Nhữ Dực vào khai khẩn đất Thăng Hoa năm 1402. Ban đầu họ Nguyễn định cư tại Hương Ly. Đến đời sau, một nhánh trong tộc chuyển hẳn lên Trung Lộc, nằm ở thượng lưu sông Thu Bồn.

  • Đàm quỲnh NgỌcChiều nay, tôi nhận được điện khẩn của Tâm, bức điện vỏn vẹn chỉ có dòng chữ: “Thứ bảy tới, tao đi Hoa Kỳ, mày tới gấp”. Tôi không ngạc nhiên khi biết Tâm đi Hoa Kỳ, với nó, đi nước ngoài đã trở thành bình thường như các bà đi chợ. Tôi chỉ ngạc nhiên khi Tâm đã điện khẩn cho tôi, điều mà từ trước đến nay chưa bao giờ có.

  • TRẦN NGUYỄN ANH Trong gia đình tôi, dì là người đến sau cùng. Dì thường bảo tôi: “Ô Mai à, hãy coi dì là bạn nhé”. Tôi thẳng thừng bảo: “Tôi chỉ có thể coi dì như kẻ thù”.

  • NHẬT HÀ      Lần đầu về thăm Đồng Tháp Mười, thú thật, tôi thấy có nhiều điều rất lạ, từ mảnh đất, sông nước, cây cối, chim muông tới các địa danh và nhất là con người.

  • CAO LINH QUÂN                Ăn mày là ai?                Ăn mày là...                                (Ca dao xưa)

  • LAM PHƯƠNGNàng không có sự lựa chọn nào khác. Cuộc đời không cho phép nàng lựa chọn. Ngôi nhà lá sùm sụp xám xịt như con ốc ma. Ba chị em không cùng cha và chưa bao giờ biết mặt cha. Và mẹ nàng, người đàn bà có khuôn mặt nhầu nhĩ như tấm lá mục úa, bươn bả mót máy làm thuê một ngày dẫn người đàn ông xa lạ về.

  • HÀ HUỆ CHI1. Mong đợi từ lâu lắm một tiếng cười sum họp. Tôi muốn khóc. Tôi muốn chết. Khi cuộc sống chẳng có gì giống một điệu múa. Khi trái tim chẳng buồn đốt pháo.

  • Phan HuyỀn ThưLam thấp thỏm nghe ngóng tiếng còi tàu từ xa vọng lại. Cứ khoảng hai phút một lần, tiếng còi hú dài xa xăm. Trời mưa to, chui tọt vào cái quán cà phê sát đường tàu, Lam ngồi gặm nhấm những thù hận của mình.

  • TRẦN HỒNG LONG“Tao cấm mầy nói nó chết! Nếu mầy còn nói nữa, tao sẽ đuổi mầy ra khỏi nhà tao ngay!”. Chỉ cần nghe cái “điệp khúc” ấy là dân xóm Vàm Đinh đủ biết bà Hoài chửi chị Ngọt ở trên tỉnh về thăm. Và, không cho chị nói chuyện anh Mặn hy sinh, mặc dù giải phóng đã hai mươi năm rồi vẫn không có một tin tức nào về anh.

  • ĐINH DUY TƯ         Truyện ngắn “Chỉ vì thằng Mỹ, tao mới đến nông nỗi này. Ví như không có hắn, tao thành trạng lâu rồi”.Đó là tuyên ngôn của một trạng lính. Vâng! Hắn tên là Nguyễn Đăng Lính ở cùng làng với tôi. Hai đứa nhập ngũ một ngày, nhưng ngành nghề có khác nhau.

  • NGUYỄN THỊ THÁIVào hội Văn học Nghệ thuật được gần năm, đây là lần thứ hai tôi được đi thực tế. Lần thứ nhất cách đây hai tháng.

  • HOÀNG BÌNH TRỌNGGập tấm bản đồ địa hình lại và vừa kịp đút vào xà cột, thì trung uý Trương Đình Hùng nghe có tiếng chân người lội bì bọp dưới suối. Lách mình ra phía sau cái trụ chằng phủ đầy dây hoa lạc tiên, anh thấy một người đàn ông trạc ngoại ngũ tuần, cao lớn, vẻ mặt thô tháp, cõng chiếc ba lô cóc phồng căng từ dưới dốc bươn bả trèo lên.

  • Y NGUYÊN     ... Những người muôn năm cũ         Hồn ở đâu bây giờ

  • GIẢN TƯ HẢIGã bước xuống xe ôm móc ví trả tiền rồi lững thững bước về con phố ven đê. Chiều thu ánh mặt trời vàng vọt trải dài lên cái thị xã vùng biên vốn dĩ đã buồn lại càng thêm vẻ mênh mang hiu quạnh. Giờ tan tầm đã qua, dãy phố ven đê hoặc có người còn gọi là cái chợ người vốn tập trung nhiều lao động chân tay cũng đã vãn dần. Thấp thoáng vài bóng chiếc ô tô qua lại. Gã chậm rãi vừa đi vừa nhìn trái ngó phải, chốc chốc quay lại nhìn như sợ bị ai đeo bám. Chân gã đi giày thể thao adidas mới cứng, vận chiếc quần bò cũ đã thủng lỗ chỗ như đạn bắn, phía trên khoác chiếc áo đại cán rộng thùng thình màu cứt ngựa, đầu đội mũ cối Hải Phòng kiêu hãnh một thời cũng đã sờn cũ và bong lớp vải để lộ cái lõi xám xịt.

  • NGÔ HỮU KHOADưới gốc cây Sau Sau, thứ cây có thân gỗ nhưng muốn mang đốt cũng không cháy, dùng làm gỗ thì nhanh mục nên mới được sống tươi tốt ở vùng rừng thường xuyên được dân sơn tràng lui tới. Dũng trong thế ngồi co quắp, hai bàn tay giấu dưới vạt áo mưa để vừa tự sưởi ấm cho cơ thể vừa giảm tiết diện để tránh những hạt mưa lạnh buốt lọt qua tán lá rậm rạp, những hạt mưa mùa không biết mệt mỏi cứ rơi và rơi…

  • NGUYỄN VIỆT HÀCó một ngày rất âu lo đã đến với thằng béo. Bụng bồn chồn tưng tức, giống như đang ngồi giữa một cuộc họp trang trọng bỗng mót tiểu tiện mà không thể đi. Trước đấy hình như duy nhất một lần cái cảm giác bất an này cũng đã đến. Láng máng không thể nhớ.

  • MA VĂN KHÁNGKhi những người U Ní ở vùng biên sau mấy tháng trời đông giá, ngồi trong nhà đánh cuốc, sửa dao, đan lát bước ra khỏi căn nhà đất dày kín như cái kén, đặt chiếc vai cày lên cổ con trâu, đi những đường cày đầu tiên, hoặc rủ nhau đi bán công khắp các nơi trong vùng thượng huyện Bát Xát, thì hoa gạo bắt đầu nở.

  • PHAN TUẤN ANH- Anh ơi lên xe đi, xe chạy suốt Bắc Nam đấy.- Có đi Vinh hả anh, bao nhiêu tiền vậy?- Ôi dào! mấy chục ngàn thôi, lên nhanh đi anh ơi.

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUYĐiện thoại di động trong túi rung lên báo tin nhắn đến, Luân uể oải mở ra xem. Khuya rồi sao còn ai nhắn tin nhỉ? Một số máy lạ với một dòng tin lạ hiện ra: “Bạn ơi tôi không biết bạn là ai nhưng tôi muốn bạn biết tôi sắp lìa xa cuộc sống này. Tôi đang tuyệt vọng”.Đúng là đồ khùng! Đồ dở hơi!

  • HOÀNG TRỌNG ĐỊNHPhòng giam chật chội, tối tăm...  Gần trần có một lỗ thông hơi. Bên ngoài lỗ thông hơi là bức tường tôn xám xỉn. Khe hở dài chừng 10 mét, rộng chừng 3 tấc, nằm song song và gần sát với mặt đường bên ngoài. Đứng trong phòng giam, từ lỗ thông hơi nhìn qua khe hở của bức tường, chỉ có thể thấy những bước chân người đi.