Ký văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường

15:10 28/08/2008
TRẦN THÙY MAICó lần anh Hoàng Phủ Ngọc Tường nói: tính chất của người quân tử là phải "văn chất bân bân". Văn là vẻ đẹp phát tiết ra bên ngoài, chất là sức mạnh tiềm tàng từ bên trong. Khi đọc lại những bài nghiên cứu về văn hóa – lịch sử của anh Tường, tôi lại nhớ đến ý nghĩ ấy. Nếu "văn" ở đây là nét tài hoa duyên dáng trong từng câu từng chữ đem lại cho người đọc sự hứng thú và rung cảm, thì "chất" chính là sức mạnh của vốn sống, vốn kiến thức rất quảng bác, làm giàu thêm rất nhiều cho sự hiểu biết của người đọc.

Quả thật tôi có phần ngạc nhiên khi thấy những bài nghiên cứu rất công phu của Hoàng Phủ Ngọc Tường lại được gộp chung trong thể loại bút ký, như chữ đề trên bìa cuốn sách do nhà xuất bản Trẻ và Công ty Văn hóa Tổng hợp Phương Nam ấn hành. Nhưng nghĩ kỹ thì cũng không có gì khác biệt giữa ký văn học và ký văn hoá dưới ngòi bút của anh Tường. Khác chăng là một bên ghi lại những chiêm nghiệm trước cuộc sống hiện tại, một bên ghi lại những suy tư khi quay nhìn vào quá khứ. Đối tượng chiêm nghiệm tuy khác nhau, nhưng cả hai chỉ là một: con người Việt , con người Huế.
Huế trong ký văn hóa của Hoàng Phủ Ngọc Tường không giới hạn ở những thành quách, lăng mộ, sông núi, hay những chuyện vua chúa hậu phi chép dài dài trong những sách sử. Hoàng Phủ Ngọc Tường không phải là nhà khảo cổ, nhà địa lý học hay sử học, nhưng là một nhà văn có kiến thức rất sâu rộng về những lãnh vực đó; là một nhà văn, điều anh quan tâm là con người, và với sự hiểu biết khoa học của mình anh đã dựng lại một diện mạo tâm hồn của Huế xưa - điều mà không một nhà Huế học nào làm được. Khi nói về thành Châu Hóa ngày xưa, anh không những cung cấp cho ta những kiến thức chính xác về thời kỳ trứng nước của Huế, mà còn tái hiện lại những bước chân, những dáng hình, ước mơ của người Huế ngày ấy, những người mà theo tác giả đã thông qua cuộc sống của mình để thực hiện cuộc đấu tranh để khẳng định văn hóa Việt trên vùng đất mới. Chính vì nhấn mạnh sự sinh thành của Huế trong vận động lịch sử, Hoàng Phủ Ngọc Tường đã phát hiện ra tính cách sâu thẳm của người Huế qua một phác đồ giản dị nhưng chính xác: Thiên nhiên – nội tâm – xu hướng tâm linh. Anh có những phát hiện rất độc đáo với hệ ngũ sắc Huế cùng với sự xuất hiện của màu tím mà anh cho là màu tạo nên sự dịu êm của tâm hồn Huế; hệ ngũ âm Huế với nét buồn lưu luyến từ âm hưởng nhạc nam; và cả cách ăn uống của người Huế, xưa nay đã nhiều người ca ngợi vì sự thanh cảnh, thẩm mỹ và tinh tế, nhưng cũng chỉ có mình anh là phát hiện ra: cách ăn của người Huế có đặc điểm là "trên cơ sở vật chất khiêm tốn, vẫn chuyển tải những ý tưởng nhân văn sâu sắc". Vì vậy cho nên, theo anh, "nếu chỉ chú ý về cái nghèo thì không thể nhìn thấy Huế".
Những nhân vật lịch sử được anh Tường tái hiện qua ngòi bút của mình hầu hết đều là người Huế, hoặc ít nhiều liên hệ đến Huế, hoặc qua cuộc đời, hoặc qua thơ văn. Nguyễn Trãi, Nguyễn Huệ, Đào Duy Từ, Đặng Huy Trứ... là những cái tên lớn trong lịch sử mà chúng ta đều biết đầu đuôi gốc ngọn từng hành vi của họ qua những bộ sử và văn học sử. Nhưng chỉ dưới ngòi bút của anh Tường, ta mới có thể nhìn qua những cơn bão táp của nội tâm và của thời đại, những chọn lựa sinh tử mà họ đã phải thực hiện trước ngã rẽ lớn của cuộc đời.
Hoàng Phủ Ngọc Tường nói nhiều về sự chọn lựa của những nhân vật lịch sử: Sự lựa chọn đau đớn của Nguyễn Trãi khi về núi để tự trong sạch một mình, sự lựa chọn của Ưng Bình Thúc Giạ trong ba lần trở về lớn lao của một đời người, sự lựa chọn của Ngô Kha mà theo anh là sự lựa chọn mang tính chung thẩm của người lính ra trận, có thể bị hủy diệt nhưng không bao giờ thất bại. Hình như chọn lựa trước hết đã là một ám ảnh trong tâm hồn Hoàng Phủ Ngọc Tường, như anh đã viết khi bàn về thể ký: trước khi chảy qua ngòi bút, những điều ấy đã chảy qua trái tim anh như một dòng máu. Bởi vậy, trong những năm đất nước chưa đổi mới, anh đã nêu tấm gương của Đào Duy Từ "đấu tranh để bảo vệ quyền tự do thương mại của người dân". Trong những năm tham nhũng còn là một chứng bệnh nan y của đất nước, anh đã viết về "từ thụ yếu quy" của Đặng Huy Trứ như một lời cảnh tỉnh. Những năm sau chiến tranh, anh đã nói về người anh hùng Tây Sơn với lời nhận định: "Khát vọng lớn ở đời của Nguyễn Huệ không phải là chiến công mà là chính trị, làm sao xây đắp nên một nền đại chính để nhân dân sống có hạnh phúc". Nhà nghiên cứu Hoàng Phủ Ngọc Tường không nhìn vào cõi xưa với thái độ của người hiếu cổ hay người phục cổ, càng không có ý mượn xưa để nói nay; điều anh muốn đạt tới, và anh đã đạt tới, là tìm cho ra dòng chảy của sự sống đã nối liền những con người Việt Nam từ xa xưa cho đến bây giờ. Đó là điều mà suốt cuộc đời cầm bút anh đã hướng tới, với tất cả tâm nguyện và hoài bão của chính anh. Như anh đã đúc kết: "Một chữ tâm có sức chứa đựng tất cả". Chữ tâm, mà giờ đây được dùng quá nhiều đã trở thành một thuật ngữ sáo mòn, nhưng dưới ngòi bút Hoàng Phủ Ngọc Tường vẫn luôn trọn vẹn ý nghĩa chân thật của nó, như anh đã định nghĩa một cách giản dị và đầy đủ: "Đấy là một tấm lòng tốt muốn đem tâm hồn mình làm quà tặng". Những bài ký văn hóa này, cũng như cả bốn tập sách của anh thật xứng đáng được đón nhận với tất cả lòng trân trọng, bởi vì đó là món quà một đời mà tác giả đã gửi đến chúng ta.
T.T.M

(nguồn: TCSH số 161 - 07 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN VĂN HẠNHI. Có những quan niệm khác nhau về bản chất, chức năng của văn chương, và có những cách thức khác nhau trong sáng tạo và khám phá văn chương, tuỳ theo hoàn cảnh, mục đích, trình độ, khuynh hướng nhận thức và hoạt động của con người trong lĩnh vực này.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam 1957-2007)

  • TÔN ÁI NHÂNThật ra, những điều mà nhà văn, Đại tá Tôn Ái Nhân nêu ra dưới đây không hoàn toàn mới so với “búa rìu dư luận” từng giáng xuống đầu các nhà văn đương đại. Và, bản thân chúng tôi cũng không hoàn toàn đồng tình với tất thảy những sự kiện (kể cả những vấn đề nhạy cảm) mà ông đã “diễn đạt” trong 14 trang bản thảo gửi tới Tòa soạn. Chính vì vậy, chúng tôi đã xin phép được cắt đi gần nửa dung lượng, để “THẤT TRẢM SỚ” NHÀ VĂN đến với bạn đọc một cách nhẹ nhàng hơn. Nhân đây cũng muốn gửi tới tác giả lời xin lỗi chân thành, nếu như lưỡi kéo của Sông Hương hơi “ngọt”.

  • NUNO JÚDICENhà thơ, nhà phê bình văn học Nuno Júdice (sinh 1949) là người gốc xứ Bồ Đào Nha. Ông có mối quan tâm đặc biệt đối với văn học hiên đại của Bồ Đào Nha và văn học thời Trung cổ của Tây Ban Nha và Bồ Đào Nha. Là tác giả của khoảng 15 tuyển tập thơ và đã từng được trao tặng nhiều giải thưởng trong nước, ông cũng đồng thời là dịch giả và giảng viên đại học. Từ năm 1996, ông sáng lập và điều hành tạp chí thơ “Tabacaria” ở Lisbonne.

  • NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).

  • HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.

  • HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.

  • NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.

  • HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.

  • ĐOÀN TRỌNG HUY

    Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.

  • NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.

  • THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.

  • TÙNG ĐIỂNLTS:  “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.

  • PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.

  • PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.

  • PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.

  • TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.

  • TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).

  • HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).