Ký ức phù sa

17:48 29/04/2009
PHAN THÀNH MINHĐó cũng là tựa đề tập thơ rất dễ thương của Trần Tịnh Yên - nhà thơ của đất kinh kỳ thơ mộng thuở nào - thú thật  là tôi đã vô cùng hạnh phúc khi nhận được tập thơ này do chính  tác giả gởi tặng, dễ thương ở chỗ khổ giấy nhỏ nhắn, trình bày đẹp trang nhã, sách 80 trang với 46 bài thơ cũng mỏng mảnh như thế nhưng nhìn rất thơ, càng thơ hơn nữa khi chính tác giả tự viết lời phi lộ cho mình, tôi rất hợp với anh ở điểm này bởi lẽ chẳng ai có thể thay thế cho mình bằng mình để nói hộ những gì mình muốn nói...:...năm xưa qua ngõ sân đìnhcó người nhặt được mối tình ai rơi

Nhà thơ Trần Tịnh Yên

Ký ức phù sa là tiếng kêu chiều của ngộ - nhận - hư - vô, đồng vọng lên hơi thở không ngừng của trái tim mật ngọt và nỗi thao thức triền miên của những tâm hồn khát khao đi tìm lại một thời huy hoàng của cỏ xanh lộng lẫy hoa tươi. Đôi khi vọng động trong cõi thiền tình hư ảo rồi tịch lặng theo sương xanh: “Trên tàu sen lục/ tàn rồi/ Giọng trầm thổ ngữ/ chim đồi/ đã bay/ Tình tôi/ lợp lá heo may/ Gió hoang thai thổi/ đã gầy mắt em...”

Em của thi sĩ như con thuyền độc mộc hoang thai giữa lênh đênh mùa thu hoàng lạp, lặng lẽ thả giấc mơ vào sương mai trên dòng Hương Giang biêng biếc để gọi người thơ quay về vùng ký ức yêu thương của mình đầy ắp kỷ niệm thuở nào: “Mượn sông/  một nhánh rong vàng/ Thắp tình em/ giữa/ hai hàng thiên thu”

Không biết cái tuổi học trò ngày xưa của anh có phải trăn trở trong cái nghèo thi vị như thời tôi không, không biết những ước mơ thần tiên ngày xưa của anh có đơn điệu như tuổi tôi trong thời bom đạn triền miên không... mà hồn thơ còn mãi lắng đọng nhiều năm sau ngày hoà bình mới bung vỡ, những nẻo quyên ca (2000) Áo mơ phai (2004) và tập thơ này Ký ức phù sa (2008) mới lặng lẽ trình làng. Chậm nhưng còn kịp, kịp để cho hồn thơ thăng hoa cùng bạn bè cùng năm tháng để rồi quay về với sương mờ khói toả.

Đó là thượng nguồn của sự yêu thương, như dòng sông có khởi thuỷ mà chẳng có điểm dừng, những giọt nước sông trong trẻo kia, bé nhỏ kia... đã đi về đâu trong cõi tạm nhân gian này, phải chăng từ trong máu của mẹ của em, trong hơi thở của muôn loài có mức giới hạn sinh tử: “Chuông chùa/ đổ phía heo may/ Là chiều dưới trúc/ tôi say bên đình/ Em tìm cửa Phật/ nghe kinh/ Tôi về/ nhặt được mối tình ai rơi”.

Có điều gì đó đang lay động trong lòng ta, phải chăng đây giống như những ca từ rất nhân sinh của Trịnh, những cọng buồn cỏ khô, những mắt xanh xao, những lá thu mưa reo mòn gót nhỏ... để nên em hình hài trôi dài trôi mãi trôi trên ngàn năm... Ở đó ngôn ngữ thiền vẽ nên bức tranh đời sáng tối bằng nét cọ nhục dục của muôn loài, oái ăm thay đó lại là chốn quay về của mọi kiếp nhân sinh trăn trở trong cái thế giới ngục tù đầy biến động bất an này.

Bốn câu lục bát mà tôi vừa trích dẫn trên đây của Trần thi sĩ đã quá độ chín thấu, chín mọng như quả thị trong cái bị của bà già trong một câu chuyện cổ tích xa xưa... có chút huyền thoại, có chút nhân gian, có tình... Nhưng tôi hơi tiếc... nếu tác giả thay cụm từ mối tình ai rơi bằng bóng hình ai rơi thì hay quá... một đàng là kế thừa một đàng sở hữu chân chính tuy là cùng động tác nhặt như nhau.

Có một điều mà tôi biết và tôi cũng trăn trở là tôi chỉ viết được tàm tạm những câu thơ xưa xưa cổ cổ, bước theo dấu chân người đi trước để không biết hỏi mình điều gì, cái hiện đại và hậu hiện đại gì gì đó xin để cho người khác. Chính vì vậy khi nhận được tập thơ này của Trần Tịnh Yên tôi cũng như mọi người là thường tìm bài chủ đạo đọc trước, đó thường là bài thơ được tác giả lấy làm tựa đề cho toàn tập. Trần Tịnh yên cũng không ngoài lệ đó nhưng tôi thất vọng, thất vọng không phải bài thơ không chuyển tải được điều gì mà tiếc cho tác giả dám đem phế táng một tình yêu nào đó trong tâm hồn mình cho cát bụi phù sa

Trong giấc mơ phồn thực
Khổ hạnh
dưới chân tháp nghiêng
Tiên cảm về những lời yêu em
giấu sau ngực lá
Những giấc mơ
chẳng bao giờ được giải mã
Tôi hoả táng
       tình mình
             trong ký ức phù sa

Vâng đó là thơ, là nỗi niềm riêng tư của Trần Tịnh Yên... điều này chỉ có thể nói với riêng mình trong tâm thức, trong tiếng thở dài hoài niệm nhưng với bạn thơ, người yêu thơ thì khó có thể chấp nhận được. Chính cái tâm tưởng không nhất quán của người làm thơ đôi khi lại đẻ ra những câu thơ tưởng chừng vô lý nhưng lại rất là thơ. Ta liên đới: Vườn non/ lá quẫy gọi chồi/ Về giữa lạ/ cỏ mọc lời chiều hoang...”

Đã là vườn non mà còn quẫy gọi chồi thì hơi bị lạ... nhưng đó là cái lạ Trần Tịnh Yên, là thơ của cái không thơ, là ngôn ngữ của cái không biên giới ngôn ngữ: “Em môi nụ hạ/ xa rồi/ Còn phơi dáng đỏ/ bên đồi lá thưa”.

Dẫu biết Phật tức tâm, Tâm có em, Em là Phật, Phật trong ta (kinh sa mạc) thì vô cùng, bởi mọi sự giải thích đều khập khiễng, cái suy diễn của người này có thể có lý nhưng áp dụng với người kia thì có vẻ cao đạo xa vời, yêu nhau cau sáu bổ ba ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười cũng chẳng giúp được gì khi mà tình yêu chủ kiến đã muốn đem đi hoả táng cho xuôi...

Không biết mình có thiên về lục bát không mà những câu thơ sáu tám của Trần Tịnh Yên đã làm cho mình bối rối, ngất ngây: “Có người/ Tình là vết thương/ Hồn như quán vắng/ bên đường cái quan/ Có người/ lòng vẫn bỏ hoang/ Đời như hạt nước/ rụng tràn khe khuya”.

thì không bàn cãi không chỉnh huấn được gì, thơ phải chăng là tiếng nói của tình yêu dị mộng chất chứa trong nó những khổ đau hoan lạc của một đời người, phải chăng là một phúc âm buồn của cõi người tạm bợ muốn được xẻ chia: “Ngày em/ quảy mộng về đông/ Có người đi sắc/ về không/ một người”.

phải chăng Trần Tịnh Yên cũng đã từng ngồi đối ẩm với Trịnh trên cái bàn nhân sinh nhân quả này chăng, để rồi khi phủi tay cát bụi lại trở về với cái bản ngã không cùng của tạo hoá để khỏi vui khỏi buồn với nhân gian: “Có người/ người đã bỏ quên/ Hồn như giếng lạ/ khô bên nghìn trùng”.

Quả là đạo vị, nhưng tiếc thay tác giả không dám phéng đi một từ thừa trong khuôn phép của lục bát, đành vậy thôi...

Qua 46 ảo khúc dung dị nhưng rất thơ này tôi chỉ lạm bàn đôi vần lục bát rất Trần Tịnh Yên, ngoài ra còn nhiếu thể thơ khác nữa cũng được tác giả trao gởi trong 80 trang sách mỏng mảnh này để mong ai đó cảm được. Những thể thơ khác đó có thể tác giả thử nghiệm hay trải nghiệm cũng còn đang mở ngỏ: “Chiều nay/ bên cỏ giao mùa/ Em đi/ cổ tích bỗng lưa thưa buồn/ Lên hoang vu/ bỏ mưa nguồn/ Xa em/ ta thấy thiên đường mất vui”.

Rất khó nói, chỉ cảm thôi cũng đủ mệt nhoài, bốn câu thơ này tôi xin thay cho lời kết bởi nó như bốn mệnh đề độc thoại độc lập mà tôi thì bé nhỏ vô cùng...

Cảm ơn tác giả đã cho đời những vần thơ sâu, còn sâu tới chừng nào thì tôi không đo nổi, chỉ biết rằng Liên Hiệp các Hội Văn Học Nghệ thuật Việt Nam đã trao giải 3 cho tập thơ này trong năm 2008, trân trọng chúc mừng.

Vinh danh cho một người thơ, một đời thơ... âu đó cũng là cái hạnh của những người cầm bút chân chính vậy.

Đà Lạt, 22 giờ 18 ngày 12.1.2009

P.T.M
(242/04-09)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LÊ HUỲNH LÂMTừ “Vọng sông quê” đến “Mang” của Nhà xuất bản Trẻ, rồi “Gửi thiên thần” của Nhà xuất bản CAND và bây giờ là “Đồng hồ một kim” của Nhà xuất bản Văn Học” được gửi đến bạn đọc, Phan Trung Thành đã khẳng định được gương mặt thơ của thế hệ 7.X. Ở đây, số lượng tác phẩm không định hình nên một gương mặt thơ, mà chính những câu chữ đã vẽ lên chân dung một nhà thơ.

  • TIỂU VĂNGiữa tháng 11 năm 2008, tôi được dự một buổi hội thảo nói chuyện chuyên đề về sách tại Zen Café (phố Ngọc Hà). Đây là buổi nói chuyện của tác giả - dịch giả Lê Thị Hiệu, với bút danh thường gọi là Hiệu Constant, giới thiệu về tác phẩm đầu tay của chị - tiểu thuyết Côn trùng. Buổi nói chuyện nằm trong chương trình “Tôn vinh Văn hóa Đọc” do Công ty Truyền thông Hà Thế khởi xướng và tổ  chức.

  • HÀ KHÁNH LINHHồng Nhu truyện ngắn, Hồng Nhu thơ… Lần đầu tiên nhìn thấy Hồng Nhu xuất hiện tiểu thuyết tôi thực lòng rất mừng. Tuy nhiên đọc gần hết hai chương đầu nỗi lo cứ cồm cộm lên trong tâm thức nhưng chính gần cuối chương II cái chất tiểu thuyết mới bắt đầu hé lộ ra, để rồi từ đó lôi cuốn người đọc cho đến hết truyện.

  • LÊ QUANG TƯCông trình Văn học Việt Nam thế kỷ X-XIX (những vấn đề lý luận và lịch sử)(1) được biên soạn bởi Trần Ngọc Vương (chủ biên), Trần Nho Thìn, Nguyễn Văn Thịnh, Trần Nghĩa, Đoàn Lê Giang, Kiều Thu Hoạch, Cao Tự Thanh..., do nhà xuất bản Giáo dục in năm 2007, dày 912 trang.

  • LÝ HOÀI XUÂN(Nhân đọc tập thơ “Mẹ!” của Văn Lợi – NXB Thuận Hoá, 2006)

  • TRẦN HUYỀN SÂMNhư con thú hoang ôm vết thương lòng đi tìm nơi trú ẩn, gương mặt người thiếu phụ mang nỗi buồn tiền kiếp - tự ngàn xưa: Người thiếu phụ có đôi mắt buồnĐi lang thang trong chiều mùa hạNỗi cô đơn lây sang cả đá...

  • MAI VĂN HOANNgười đời thì lập ngôn còn Nhụy Nguyên thì “lập thiền”. Thú thực tôi chưa hiểu hết dụng ý của Nhụy Nguyên khi đặt tên cho tập thơ đầu tay của mình là Lập thiền. Bản thân từ Hán Việt vốn ẩn chứa nhiều tầng nghĩa.

  • BỬU NAMI. Văn học Mêhicô ở thế kỷ XX, có lẽ được xem như một nền văn học năng động và sáng tạo nhất Châu Mỹ La tinh. Táo bạo trong những tìm tòi mới, linh hoạt uyển chuyển trong cách diễn tả, đa dạng phong phú trong cách sử dụng các cấp độ ngôn ngữ, sáng suốt trong cách chọn lựa đề tài, hình thức, ngôn ngữ: tiểu thuyết và truyện ngắn ở Mêhicô tạo được những không gian sáng tạo và đổi mới một cách tự do.

  • NGUYỄN TÝ51 bài thơ cùng 8 ca khúc được phổ thơ của Trần Hữu Lục vỏn vẹn 120 trang qua tập thơ “Vạn Xuân” (*) mới nhất của anh, người đọc đồng cảm cùng tác giả- một người con xứ Huế tha phương.

  • NGÔ MINHNhà xuất bản Văn nghệ vừa ấn hành tập ký “Phùng Quán- Ba phút sự thật”, tập hợp mười lăm bài viết, ký thấm đẫm chất nhân văn rất của cố nhà thơ nổi tiếng Phùng Quán.

  • NGUYỄN ĐÔNG HIẾUTrong cuộc đời làm xuất bản của mình, Phùng Quán là một nhà văn đã để lại cho tôi những ấn tượng mạnh mẽ, sâu sắc, khó quên.

  • PHẠM PHÚ PHONG Tập nhật ký Tây tiến viễn chinh (do Đặng Vương Hưng biên soạn và giới thiệu, Phạm Tiến Duật viết lời bạt, Nxb Hội Nhà văn, 2005) của liệt sĩ Trần Duy Chiến, bắt đầu viết từ ngày 7.10.1978, khi anh mới nhập ngũ, đến ngày 25.6.1980, trước khi anh hy sinh gần một tháng.

  • BỬU NAM giới thiệu1. Cuốn tiểu thuyết best - seller “Hồi ức của một Geisha” của nhà văn Arthur Golden vừa được dựng thành phim. Nhà văn Arthur Golden đã dành cả 40 năm cuộc đời mình tìm tư liệu về cuộc sống của những nàng Geisha ở Nhật Bản, để sáng tạo nên một cuốn tiểu thuyết Best - Seller giữ vị trí được bạn đọc thế giới yêu thích lâu dài trên danh mục những tiểu thuyết bán chạy nhất do báo New York Times bình chọn.

  • HOÀNG VŨ THUẬT(Đọc tập thơ Lệ Thuỷ mút mùa của Ngô Minh)Nói đến Ngô Minh là nói đến thế - giới - cát. Cát trong suy nghĩ của Ngô Minh như thứ ngôn ngữ minh triết về đời sống con người. Là vật chất, nhưng không giản đơn như mọi thứ vật chất. Cát có thể nóng như lửa, lại mềm mại dịu êm dưới chân người. Li ti từng hạt nhỏ, vậy mà bên nhau cát xây nên luỹ nên thành án ngữ dọc biển bờ Tổ quốc. Cát hiền lành trong sạch, khi giận giữ có thể biến thành những cơn bão khủng khiếp.

  • BÙI ĐỨC VINH(Nhân đọc tập thơ “RỖNG NGỰC” của Phan Huyền Thư, NXB Văn học 2005)

  • PHAN THUẬN AN"Khóc Bằng phi" hay "Khóc Thị Bằng" là một bài thơ nổi tiếng xưa nay, nhưng tác giả của nó là ai thì chưa được xác minh một cách cụ thể. Người ta thường cho rằng bài thơ trữ tình này là do vua Tự Đức (1848-1883) làm ra để thương tiếc một bà cung phi tên là Thị Bằng còn rất trẻ đẹp nhưng chết sớm.

  • HÀ VĂN LƯỠNGTrong văn học Nga thế kỷ XX, Aleksandr Solzhenitsyn là một trong những nhà văn lớn, nổi tiếng có nhiều đóng góp cho nền văn học Nga trên nhiều phương diện, một người suốt đời tận tụy và kiên trì đấu tranh cho sự chiến thắng của nghệ thuật, của sự thật đối với những cái xấu, cái ác. Nhưng ông cũng là một nhà văn có cuộc đời đầy thăng trầm, bất hạnh và phức tạp.

  • BÙI LINH CHIAnnemarie Selinko (1914-1986) là một nhà báo, nhà tiểu thuyết gặt hái được một số thành công trong sự nghiệp tại Tổ quốc của mình là nước Áo. Trong những tháng ngày chạy nạn 1943, bà đã cùng chồng đến Thụy Điển, đã chứng kiến những làn sóng người tị nạn phải rời bỏ quê hương trước ý chí ghê gớm của kẻ độc tài khát máu Himler gây ra.

  • TRẦN HUYỀN SÂM1. Nobel là một giải thưởng danh giá nhất, nhưng cũng chứa đựng nhiều nghịch lý nhất trong tất cả các giải thưởng. Riêng giải Nobel văn học, bao giờ cũng gây tranh cãi thú vị. Bởi vì, Hội đồng Viện Hàn Lâm Thụy Điển phải trung thành với lời di chúc của Alffred Nobel: trao tặng giải thưởng cho người sáng tạo ra tác phẩm văn học xuất sắc nhất, có khả năng định hướng lý tưởng cho nhân loại.

  • NGUYỄN THỊ MAI(Nhân đọc tập thơ “Ra ngoài ngàn năm” của nhà thơ Trương Hương - NXB Văn học – 2008)