Ký ức mùa nước lũ

15:05 03/09/2008
LÊ QUÝ LONGThông lệ cứ mỗi buổi sáng uống xong cốc càphê tôi đến mở phòng tranh. Ngày 1 tháng 11 năm 1999 chừng tám giờ sáng, ngoài đường nước đã lên phủ khắp mặt nhựa. Suốt đêm qua cho đến lúc này trời vẫn mưa to.

Tôi vẫn điềm nhiên ngồi sửa lại bức tranh vẽ còn dang dở. Chợt nhớ tới mẹ già ở quê nhà trong mưa gió bốn bề khó khăn. Nôn nao quá, tôi đóng cửa phòng, chạy mua ít mì cua dong thẳng về làng. Trước nhà mẹ tôi có con khe nhỏ, bấy giờ nước đã dâng cao ngập bờ. Trên tay ôm thùng mì cua, tôi xắn quần lội. Nước chảy quá mạnh, đôi chân mất thế thăng bằng, hai lần tôi không qua được. Tôi đành dừng lại, dõi mắt nhìn theo dòng nước chảy. Chừng mười phút sau có một cậu thanh niên ở cùng xóm đi đến. Tôi mừng quá. Hai chú cháu cầm tay nhau chặt, chân men theo dòng nước, dịch lần lần. Hồi lâu chúng tôi cũng qua được.
Mẹ tôi đang ngồi bên bếp lửa, hai tay đưa ra hơ, mắt nhìn hướng ra ngõ chừng như mong ngóng. Tôi bước vào cởi áo mưa ra, ngồi bên mẹ, để hộp mì cua xuống bên. Mẹ tôi nói: "Trời mưa gió, nước khe chảy riết như thế làm sao con về được? Đừng lo cho mẹ, ở đây mẹ có mua đồ ăn dự trữ rồi!". Mái tóc bạc phơ, màu vàng nâu của làn da nhăn nheo, đôi môi tím tái mẹ nói tiếng hơi yếu. Như để chế ngự cơn lạnh rét, ổn định tinh thần, mẹ ngước lên, sắc diện khác hẳn, tươi mươi hơn, thỉnh thoảng lại hé cười thanh thản. Tôi khươi bếp lửa ngẫm nghĩ: "Khi còn trẻ cho đến khi có chồng có con mẹ bộn bề công việc, tảo tần hôm sớm. Giờ tuổi già thế nầy, một mình bên bếp lửa với đôi mắt đăm chiêu... Con cái thì nhiều nhưng mỗi người một nơi, kẻ xa kẻ gần, tất bật với kế sinh nhai. Dâu con có trong nhà nhưng mẹ tôi một mực ăn riêng, không làm phiền ai. Mẹ không than phiền, không trách móc, lúc nào cũng một lòng cầu nguyện cho các con cháu sức khoẻ, ăn nên làm ra. Với tấm lòng nhân hậu vị tha như vậy nên mẹ được xóm làng thương mến, con cái yên tâm. Tôi thưa: "Mẹ, con lên! Sợ nước mỗi lúc một to, qua khe không được!" Ừ, thôi con lên với các cháu. Nhớ qua khe cẩn thận nghe! Nghe nói khi sáng có thằng gì bên xóm lội qua bị nước tống trôi vào bụi tre, may nhờ có người cứu không thì nó chết rồi!" "Con đợi năm ba người cùng dìu nhau qua mẹ ạ" "Rứa thì được! Con lên đi".
Ngoài trời mưa không dứt, mỗi lúc lại xối xả hơn. Trong lòng bồn chồn, làm sao qua khe được rồi còn phòng tranh nữa. Tôi nhặt một đùi tre cán dáo để bên đống rơm chống từ từ bước đi. Mẹ tôi nhìn cho đến khi tôi khuất cửa ngõ. Tôi mạnh dạn chống đùi lần lần đi. Nhưng thềm cống bắt qua con khe nhỏ đã tràn ngập nước, và chảy rất mạnh, tôi phải trở lại, không tài nào qua được, khó khăn hơn lúc đầu.
Châm điếu thuốc tôi hít một hơi dài rồi từ từ phì ra một cách băn khoăn, thì ở trên dốc xa có một nhóm 5 thanh niên đi lại. Hoá ra đều là người quen biết cả. "Chú yên tâm tụi con sẽ đưa chú qua!" Tôi mừng rỡ, rít tiếp hai hơi thuốc dài. Mười phút sau chúng tôi qua thoát. Áo quần ướt hết, cơn lạnh bắt đầu thâm nhập vào cơ thể. Tôi lấy gói thuốc ra phát hết cho các em, chào cám ơn và chạy về nhà thay quần áo, vác xe chạy lên phòng tranh. Qua khỏi cầu An Cựu, không chạy xe được nữa đành trở lại cất xe đi bộ. Đường nước chảy xiết không có một móng người. Làm sao mà đi, tôi thở dài bất lực... Ngày 3 tháng 11. Cơm nước xong cỡ chừng mười giờ sáng, Hai cha con rủ nhau tìm cách lên phòng tranh. Từ Nghẹo Giàng Xay lội ra cầu An Cựu lội tiếp đến ngã tư Hùng Vương, Nguyễn Huệ thì lội không được nữa vì nước đã ngập cổ, mấp mé vào miệng. Một chiếc ghe nhỏ bằng tôn có hai cậu thanh niên vạm vỡ ở tuổi chừng trên hai mươi. Họ cao to, nước da ngăm ngăm đen, từ từ lướt tới. "Bác cháu đi đâu tụi con đưa đi" - "Tốt quá, lên đến cửa hàng số một là bao nhiêu hai người". "Dạ năm mươi ngàn". Tôi đồng ý "Mời Bác lên ghe". Tôi vịn chiếc ghe cho thằng con trai lên trước. Hai cha con tôi ngồi giữa lòng, hai tay vịn thành ghe cẩn thận. Hai cậu thanh niên lực lưỡng người trước kẻ sau lội đẩy ghe đi. Tôi thấy yên tâm vì hai chàng trai to béo mạnh mẽ. Trên chiếc ghe con đầu mũi có một bịch mì cua của hai chàng thanh niên. Tôi không nói gì cả, thỉnh thoảng dùng chèo tay bơi giúp. "Dòng sông Hùng Vương" ào ào chảy xiết, "sông Bà Triệu" chảy qua "sông Nguyễn Huệ" nối tiếp, ngọn nước giữa bốn ngã tư xoáy khủng khiếp. Hai thanh niên bặm môi ghì chặt, lần chân bám đất tạo thế cân bằng đẩy ghe đi. Được một đoạn cỡ hai mươi mét ngọn nước đâm vào giữa lưng, ghe mất thế thăng bằng trôi trở lại. Hai chàng thanh niên bắt đầu có kinh nghiệm, đẩy ghe vào mé trong bờ lề tránh đầu ngọn nước. Gần một tiếng đồng hồ mà đi chưa đầy một trăm mét. Lòng tôi bồn chồn lo lắng cho số phận những bức tranh. Thỉnh thoảng tôi hỏi thằng con có lạnh không. Nó lắc đầu. Tôi yên tâm phụ lực tiếp sức cho ghe vượt lên. Gần hai giờ chiều, ghe mới vượt đến ngang nhà thờ Tam Kỳ Phổ Độ. Lại một ngã tư nước chảy mạnh và xoáy nữa. Con thuyền bé nhỏ lần này không ghì lại được. Cố gắng hết sức, qua khỏi ngã tư cậu thanh niên phía trước trượt chân, nước cuốn trôi ra xa rồi tấp vào hàng rào dây thép gai trước nhà thờ Tam Kỳ Phổ Độ. Không cựa quậy được, cậu ta nhô đầu lên khỏi mặt nước mũi thở phì phà. Lần lần, không biết cậu ta tháo gỡ ra sao mà đứng dậy được. Nhưng người vẫn còn mắc vướng dây thép gai. Cậu thanh niên còn lại không nản chí quyết tâm một mình đẩy ghe đi. Thuyền đến Nhà hát Trung Tâm, vô ý mũi ghe quay ra ngoài nước tống lật ghe chìm. Hai cha con lóp ngóp bơi vào trong vịn thành, ướt như chuột lột. Cơn lạnh bắt đầu thâm nhập vào cơ thể, hai cha con tay chân run bắn, mặt xanh tái. Trong khi đó, cậu thanh niên hập lặn bơi theo dòng chảy để kịp vớt lấy bịch mì cua. Cậu ta trở lại tìm chiếc ghe chìm. Cậu quăng bịch mì cua vào cho tôi, bơi ra nâng chiếc ghe lên. Nước ào ào... cậu đẩy thuyền ép theo bờ thành, hai cha con lên trở lại. "Con chịu khó, gần đến rồi!" tôi ngoảnh nói với con. Cậu thanh niên đang tìm cách vượt qua khoảng trống rộng của ngã sáu dòng sông giáp công của cơn nước lũ cuồn cuộn dữ dằn. Bên góc đầu đường có một chiếc xe bọc thép chết máy đậu lại, hàng chục người đứng trên xe. Chiếc thuyền và cậu thanh niên giằng co nhau giữa sóng nước. Hồi lâu mới qua khỏi "con sông Đống Đa", qua khỏi chiếc xe bọc thép, bắt đầu tiến về đầu đường Hà Nội. Tôi nghĩ thầm cậu thanh niên này có chiến đấu được không giữa bao la sóng nước này? Từ trong xe bọc thép có một người đàn ông lội ra năn nỉ thiết tha cho lên Cầu Mới tìm vợ. Cậu thanh niên đồng ý cho lên ghe. Chắc cậu ta nghĩ tăng trọng lượng trên ghe để giằng cơn sóng nước lũ. Ba người ngồi trên ghe nhỏ chao qua chao về một hồi lâu. Cậu thanh niên nói: "Ngồi yên không được cử động". Ba người tôi ngồi xích lại tay ghì chặt vào thành ghe. Ghe từ từ tiến lên. Được chừng hai mươi mét tình cờ có một cơn sóng dữ dội đánh vào bờ thành dội ra làm chiếc ghe xoay lại. Con nước xoáy lại nhận chìm thuyền lần hai. May cận thành, cha con tôi vịn được, thở hắt ra. Còn người đàn ông đi nhờ trôi ra xa cùng chiếc ghe. Ông ta lặn hụp, nước cuốn trôi về xa trong khi cậu thanh niên đó đuổi theo nhặt bịch mì cua lần nữa, rồi trở lại với chiếc ghe đẩy đến bên chúng tôi. Con ghe vượt lên thêm năm mươi mét nữa bắt đầu tiến sâu vào đường Hà Nội. Liền lúc đó, con ghe chao đảo, ngọn nước lại nhận chìm nó lần ba. Cha con tôi bị chiếc ghe đè lên người nước đẩy trôi. Rất may ghe va vào cây trứng cá đầu đường. Ghe bị lệch dạt ra ngoài rồi trôi tiếp. Tay nắm tay đứa con một tay ghì chặt vào nhánh cây trứng cá kéo lại "Con cố gắng dùng sức kéo lại gần ba trong khi con nước đưa hai đôi chân trôi theo". Một hồi lâu, hai cha con mới trèo được lên cây trứng cá ngồi nghỉ trong khi cơn mưa trút nước không ngừng, ở dưới con nước cuồn cuộn chảy xiết. Tôi xem đồng hồ tay. Mười sáu giờ chiều bầu trời sẫm lại. Gần sáu tiếng đồng hồ chỉ đi được gần năm trăm mét. Còn chừng hai trăm mét nữa thôi, nếu đến thì trời đã tối trong khi chẳng có đèn đóm gì cả. Chiếc ghe cậu thanh niên đã ghì chặt bên thành. Từ gốc cây đến bờ thành xa chừng hai mét thế mà cậu thanh niên không tài nào đưa ghe ra được. Tôi xuống trước, ôm gốc cây tay vin theo nhánh cây, dùng lực đưa chân xuống chạm đất bấm lại, đưa tay phải lên cho con rồi từ từ trụt xuống... Cậu ghì chiếc ghe, run lập cập, mặt xanh, mắt đỏ ngầu. Đã mệt quá rồi nhưng cậu không một lời bàn lui, thật là gan lì! Qua lần thoát chết, tôi ân hận sao lại đưa con đi như thế này nếu xẩy ra chuyện gì thì sao.
Cậu thanh niên thúc dục chúng tôi lên ghe. Ghe bắt đầu tiến ngược dòng sông nước chảy. Cậu ta đã đuối sức lại một mình nên một lần nữa để mũi ghe bị ngọn nước mạnh tống vào. Ghe lật ấp trôi ra xa. Hai cha con tôi tìm được chỗ vịn, ôm nhau trôi theo dòng nước. Tôi ghì con trai lại, dùng sức nâng lên, đôi chân bỗng chạm đất. Ôm nhau đứng như trời trồng, thì đằng xa cậu thanh niên lại bơi theo nhặt bịch mì cua một lần nữa. Chúng tôi vẫn đứng yên một chỗ xem cậu thanh niên có đem ghe đến không. Lần này cậu thanh niên bất lực không đưa ghe đến mà đẩy trôi theo dòng nước trở về không một lời phân giải. Đằng xa kia cậu thanh niên mắc vào hàng rào dây thép gai đã gỡ xong đứng chờ đợi bạn. Đến nơi hai người thì thầm trao đổi gì không rõ, người trước kẻ sau đẩy ghe về chốn cũ. Chung quanh tôi và trên ngã "các dòng sông" không một bóng dáng người, ghe thuyền. Trời bắt đầu sẩm tối. Không thể đứng như thế, chúng tôi đánh liều dìu nhau lội về. Nước lúc vào miệng lúc vào mũi. Lạnh, đói, rã rời... Từng ngụm nước bạc phun ra từ miệng đứa con mười sáu tuổi nhỏ bé của tôi. Nó ngước nhìn tôi: "Sao Ba, con đi không được nữa, nước vào miệng nhiều, còn chuột rút nữa! - Tôi xanh mặt. "Con cố gắng vin vào vai Ba, đưa thẳng hai chân, con chịu khó đau một lúc rồi hết". Tôi đưa vai cõng con chậm rãi lội. Dưới ngã tư kia, hai cậu thanh niên đã đứng bên chiếc ghe như chờ đợi. "Con hết chuột rút rồi, Ba để con xuống và đứng nghỉ một hồi cho lại sức". Hai cậu thanh niên đàng xa, thấy được bóng cha con, biết là đã thoát, bèn đưa tay vẫy chào rồi mất hút phía sau dãy nhà Trường Cao Đẳng Sư phạm. Tôi vừa đi và thầm nghĩ sao họ tốt thế, đã không đòi tiền lại không đợi để nhận một lời cám ơn, một ít bồi dưỡng... Thế là việc cứu phòng tranh của tôi trong cơn lũ thất bại, tôi phó mặc cho trời đất...

Cơn lũ thế kỷ bắt đầu rút thì cha con tôi cũng nằm như không dậy nổi. Cơn cảm cúm bắt đầu hành xác, đầu nóng rang, trong lòng lạnh buốt. Sáng ngày 6.11.99 Hai bố con dậy thật sớm đi bộ lên phòng tranh. Các ngã đường vẫn còn lội đến ngang đầu gối. Đường Hà Nội còn ngang mắt cá. Lên đến nơi, tôi mở cửa phòng ra mà ngao ngán. Đất bùn dày cỡ một tấc. Con nước đánh tan tập tranh giấy mỗi bức cuộn vào đất bùn vày vò che lấp rải rác nằm la liệt như bãi chiến trường. Bộ ghế xa lông nghiêng ngửa bên góc cửa ngoài. Nhiều bức tranh sơn dầu lấp dưới bùn non, Có bức nửa lấp nửa hở, nằm co ro như đợi chờ chủ nhân đến cứu lấy. Tôi thấy vô cùng ngao ngán; cơn đau trong người lại chưa dứt hẳn. Chần chừ mãi tôi mới xắn tay lên. "Con từ từ lấy từ ngoài vào, vuốt bùn ra, nhặt tranh đem rửa, mau cả hết nước". Hai bố con tập trung sức lực hốt bùn non đưa tranh ra ngoài để một đống. Nhiều em học sinh lội nước đi qua đứng nhìn cảnh tan nát của phòng tranh, sà vào, cùng nhau phụ giúp. Có một em sinh viên trường Đại học Sư phạm phụ giúp từ đầu cho đến cuối, dội bùn, rửa tranh rất cẩn thận xếp đặt gọn gàng. Tôi ngồi vuốt ve trở lại những bức còn bùn đọng, những giọt nước mắt tự nhiên rỏ xuống. Biết bao công sức trí tuệ đã bỏ ra trên từng tác phẩm! Thế mà hôm nay nhìn lại cảnh tượng vô phương cứu chữa này. Em sinh viên cùng hai cha con tôi rửa khung vải, khung gương, ghế bàn, rồi giăng phơi tranh phía ngoài trước cửa. Nỗi đau một mình nhận lấy, niềm an ủi được cậu bé sinh viên quan tâm giúp đỡ, cứu tài sản của mình một cách trân trọng không hề vụ lợi.
Từ sáu giờ sáng làm liên tục cho đến 14 giờ chiều mà chúng tôi không thấy đói. Mồ hôi tiếp tục tuôn ra. Chắc chính vì thế cơn cảm cúm của tôi dứt hẳn, khoẻ người. Việc thu dọn phòng tranh tương đối ổn định, tôi mời cháu sinh viên đi ăn cơm trưa. Cháu từ chối: "Con phải về nhà kẻo ba mẹ con lo lắng". Tôi dúi ít tiền vào tay cháu. Cháu dứt khoát không nhận, đẩy xe, đạp đi vội vàng. Tôi đứng nhìn theo. Sao những chàng trai như cậu thanh niên đẩy ghe, cậu sinh này làm cho lòng tôi ấm áp đến thế!
Cửa phòng khép lại, thằng con theo bạn chở về. Còn lại một mình tôi ngồi trên thềm cấp trước phòng nhớ lại thời xưa.
Sau ngày giải phóng, tôi có một khu rẫy của cha ông để lại. Tôi muốn có căn nhà biệt lập treo tranh và nơi sáng tác yên tĩnh ý định đã trở thành hiện thực sau năm tháng. Căn nhà cỡ chừng ba mươi mét vuông, lợp tranh, cột sắt, chung quanh tường là ván ép dày một phân, sơn màu mỡ gà trông rất đẹp mắt. Từ thời kỳ tôi triển lãm tại Đà Nẵng sau triển lãm tại Huế năm (1972-1973) còn lại tranh đưa vào nhà trong rẫy. Khoảng chừng hai năm sau xã Thuỷ Dương có kế hoạch đắp đập thuỷ lợi. Khi gần hoàn thành là lúc mùa đông đến. Vùng đất rẫy thành lòng hồ nước! Và giờ đây... Một tiếng chào gọi tên tôi vút qua, tôi tỉnh lại thở phào từ từ đứng dậy. Dù sao thì cũng xin chào cơn lũ đã qua. Mong rằng mi đừng nên trở lại mà hành quê hương, mà hành ta nữa!...
Huế, ngày 15 tháng 3 năm 2002
L.Q.L

(nguồn: TCSH số 163 - 09 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • LTS: Phát hành tới hàng trăm ngàn bản, Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm là cuốn sách duy nhất (có thể nói như vậy) gây được xúc động cho các thế hệ độc giả trong và sau chiến tranh, cho cả hai phía xâm lược và chống xâm lược nhờ tính chân thực của nó.Sông Hương trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc một số trang trong cuốn Nhật ký Đặng Thuỳ Trâm và hai bài viết liên quan đến cuốn sách

  • NGUYỄN QUANG HÀ                        Truyện kýHoà thượng Thích Đôn Hậu gọi đại đức Thích Trí Diệm lên phòng riêng:- Ta đang mắc công chuyện không thể xa Huế được trong thời gian này, nên ta cử thầy vào chùa Hải Đức, Nha Trang tham gia cuộc thuyết pháp quan trọng tại đó. Thầy đi được chớ?Đại đức Thích Trí Diệm cúi đầu thưa:- Dạ, được ạ.

  • VĨNH NGUYÊN                Truyện kýSau “vụ” gặp em, tôi băn khoăn lắm lắm. Là bởi trước đó - trước quả rốc-két mà chiếc F4H phóng xuống và em bị thương dưới đùi, em đang chờ tháo dây thuyền ở hốc đá, còn tôi thì giữ lấy ống ti-dô cho nước vào hai cái thùng phuy trên thuyền cho em. Hai chiếc thùng phuy 400 lít nước sắp tràn đầy. Như vậy là quá đủ thời gian cho chúng ta có thể hiểu biết về nhau, tên tuổi, quê hương bản quán.

  • ĐẶNG VĂN SỞ          Ghi chépKhông hiểu sao tôi lại đi tìm anh - anh Nguyễn Đức Thuận - người anh chú bác ruột cùng chung sống dưới một mái nhà với tôi. Tôi chỉ nhớ là hồi đó chồng của cô tôi nằm mơ thấy anh, và bác vào tận Nha Trang để đi tìm anh Mậu, người đồng đội và là người chứng kiến lúc chôn cất anh.

  • NGUYỄN QUANG HÀMột buổi sáng vợ chồng anh Thảo, chị Ái đang đèo nhau, phóng xe Honda trên đường Nguyễn Trãi, một con đường lớn của thành phố Huế, bỗng có một người lao thẳng vào xe anh Thảo. Nhờ tay lái thiện nghệ, nên anh Thảo đã phanh xe kịp. Hai vợ chồng dựng xe, ra đỡ nạn nhân dậy.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGBút kýAnh đã xứng đáng với danh hiệu "Nghệ sĩ Nhân dân" của nhà nước ta phong tặng. Riêng Hội Nghệ sĩ điện ảnh Nhật Bản đã tặng cho anh giải thưởng vẻ vang dành cho người nghệ sĩ thuật lại sự tích dân tộc mình bằng điện ảnh...

  • ĐÀO XUÂN QUÝĐã lâu lắm, có đến hơn hai năm, kể từ khi bị tai nạn ở chân tôi chưa đi vào các hiệu sách, kể cả các hiệu sách ở Nha Trang. Đi tới các hiệu sách thì xa quá, đi bộ thì không đi nổi, mệt và nóng lắm, mà đi xe thuê thì cũng khó, vì họ không phải chỉ đưa mình tới nơi mà còn phải đợi hàng giờ khi mình phải tìm chọn sách nơi này nơi nọ, quầy này quầy khác v.v...

  • NGUYỄN THANH CHÍHai mươi tám tuổi, nó không biết chữ và không quen đi dép, mặc áo quần dài; lầm lũi, ít nói nhưng rất khoẻ mạnh... Với nó rừng là nhà, các lối mòn trong rừng thì thuộc như lòng bàn tay... Đó là Trương Ngọc Hoàng, sinh năm 1977.

  • NGUYỄN TRỌNG BÍNHMọi chuyện xẩy ra suốt 55 ngày đêm ở đơn vị trong cuộc tổng tiến công nổi dậy xuân 1975 mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, tôi đều nhớ như in. Thế mà, lạ lùng thay, suốt thời gian đó, hàng ngày mình ăn thế nào, lại không nhớ nổi. Chỉ nhớ mang máng có lúc ăn cơm nắm, ăn lương khô. Về giấc ngủ, có thể là tranh thủ nửa ngủ nửa thức giữa 2 trận đánh hoặc lúc ngồi trên xe trong đội hình hành tiến. Cố hình dung, tôi nhớ được bữa cơm chiều ở dinh Độc Lập, hôm 30-4-1975.

  • NGÔ MINHỞ CỬA NGÕ XUÂN LỘCSư Đoàn 7 thuộc Quân Đoàn 4 của chúng tôi hành quân từ Bảo Lộc về ém quân trong một rừng chuối mênh mông, chuẩn bị tấn công cứ điểm Xuân Lộc, cửa ngõ Đông Bắc Sài Gòn, đúng đêm 1-4-1975.

  • HUỲNH KIM PHONG(Chào mừng kỷ niệm 30 năm ngày giải phóng miền , thống nhất đất nước 30.4.1975 - 30.4.2005)

  • LÊ HOÀNG HẢICon người từ khi cảm nhận thế giới xung quanh là lúc cảm được sự xa vắng, ly biệt... Nhớ hồi thơ dại, đứng trên bến sông trước nhà nhìn sang Cồn Hến thấy sông rộng lắm cứ nghĩ khó mà bơi sang sông được. Mỗi lần đi bộ từ nhà lên cầu Gia Hội dù chỉ vài trăm mét nhưng lại cảm thấy rất xa. Càng lớn khôn cảm nhận về khoảng cách được rút ngắn. Nhưng lạ thay khoa học ngày càng khám phá không gian, vũ trụ thì chạm đến cõi vô cùng.

  • HỒ NGỌC PHÚTôi về lại Huế sau trận lụt tuy muộn nhưng khá lớn vào gần cuối tháng 12 năm 2004. Ngồi ở quán cà phê Sơn bên bờ chân cầu Trường Tiền, nhìn sông Hương vào lúc sáng sớm sao thấy khang khác, trong có vẻ như sáng hơn ngày thường.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGĐã lâu tôi không hề nhắc đến hoa, và tôi cảm thấy tôi đã có lỗi đối với những người bạn tâm tình ấy dọc suốt một quãng đời chìm đắm trong khói lửa. Thật ra, những cánh hoa nhỏ bé và mong manh ấy đã viền con đường tuổi trẻ đầy kham khổ của tôi. Chiến chinh qua rồi có nhiều cái tôi đã quên, nhưng những cánh hoa dại dọc đường không hiểu sao tôi vẫn nhớ như in, như thể chúng đã được ấn vào trí nhớ của tôi thành những vết sẹo.

  • NGUYỄN THẾ QUANG(Chuyện tình chưa kể của nhà thơ Hoàng Cầm)

  • VÕ NGỌC LANTôi sinh ra và lớn lên tại vùng Kim Long, một làng nhỏ thuộc vùng cận sơn, không xa Huế là bao. Bởi thuở nhỏ chỉ loanh quanh trong nhà, trong làng ít khi được “đi phố” nên đối với tôi, Huế là một cái gì thật xa cách, thật lạ lùng. Đến nỗi tôi có ý nghĩ buồn cười: “Huế là của người ta, của ai đó, chứ không phải là Huế của tôi”, ngôi chợ mái trường, một khoảng sông xanh ngắt và tiếng chuông chùa Linh Mụ... mấy thứ ấy mới là của tôi.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

  • HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGTôi rẽ vào nhà Thiệp để đưa bé Miên Thảo đi học. Cô bé hét vang nhà để bắt tìm cho ra chiếc dép đi trời mưa lạc nơi đâu không biết. Miên Thảo mặc chiếc quần Jean xanh và khoác áo len đỏ, choàng một chiếc phu la cổ màu đen trông thật đỏm dáng.

  • NGUYỄN QUANG HÀSông Bồ là con sông không dài, nhưng đẹp ở về phía Bắc Huế. Phía tả ngạn, hữu ngạn vùng thượng lưu sông là hai huyện Phong Điền và Hương Trà, vùng hạ lưu sông chảy qua Quảng Điền rồi đổ vào phá Tam Giang. Làng xóm hai bên bờ sông khá trù mật.

  • MINH CHUYÊN (Tiếp Sông Hương số 12-2008)