Kỷ niệm Cách Mạng Tháng Tám và Quốc Khánh 2.9

12:58 01/09/2012

NHÂN TÀI, TẢN MẠN NHÌN TỪ HUẾ

HỒ TRƯỜNG AN

Nhân dân Huế tuần hành qua cửa Thượng Tứ tham gia khởi nghĩa giành chính quyền, tháng 8 - 1945. Ảnh: T.L

1.

Từ khi Công chúa Huyền Trân bước chân xuống thuyền đền nợ giang san năm 1306, Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế trải qua 700 năm góp sức làm nên sự nghiệp mở cõi dựng nước và giữ nước của dân tộc. Tiếp sau bước chân Huyền Trân, Thuận Hóa là đất phên dậu cho hành trình Nam tiến sau đó. Liên tiếp các triều Tây Sơn, triều Nguyễn, Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế là thủ phủ của đất nước. Và có thể nói, Cách mạng Tháng Tám chỉ thành công trọn vẹn, khi trước sự chứng kiến của mười vạn người dân Huế tại Ngọ Môn, vua Bảo Đại đã trao ấn kiếm cho phái đoàn của Chính phủ Việt Minh, chính thức chấm dứt chế độ quân chủ ở Việt Nam, mở ra nền dân chủ cộng hòa.

Trong suốt dòng chảy 700 năm dựng nước và giữ nước, vùng Thuận Hóa - Phú Xuân - Huế đã đóng góp rất nhiều nhân tài lỗi lạc cho đất nước. Khởi đi từ Huế, hoặc đó là những người từng gắn bó với Huế; về chính trị tiêu biểu có lãnh tụ Hồ Chí Minh; về quân sự có Quang Trung, Võ Nguyên Giáp, Nguyễn Chí Thanh...; về chế định chính sách có Minh Mạng...; về hoạt động cách mạng có Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh...; về ngoại giao có Nguyễn Trường Tộ...; về tôn giáo có Hòa thượng Thích Đôn Hậu, Sư Bà Diệu Không..., về giáo dục có Đạm Phương Nữ Sử...; về văn học có Nguyễn Du, Nguyễn Đình Chiểu, Tự Đức, Thiệu Trị, Tùng Thiện Vương, Tuy Lý Vương, Tố Hữu, Xuân Diệu, Huy Cận, Hàn Mặc Tử, Trần Thanh Đạm, Ngô Kha, Nguyễn Khoa Điềm, Hoàng Phủ Ngọc Tường...; về âm nhạc có Trịnh Công Sơn...; về hội họa có Lê Văn Miến, Tôn Thất Đào, Phạm Đăng Trí, Bửu Chỉ...; về báo chí có Huỳnh Thúc Kháng, Hải Triều...; về dịch thuật có Bửu Kế, Bửu Ý...; về y học có Hồ Đắc Di, Tôn Thất Tùng, Đặng Văn Ngữ, Tôn Thất Bách...; về sử học có Đào Duy Anh, Phan Huy Lê, Tôn Thất Chiêm Tế, Trần Bá Đệ...

Chắc chắn là không thể dẫn ra được hết các tên tuổi đã làm rạng danh xứ sở xưa nay. Nhưng chính những tinh hoa nhân tài ấy đã làm nên vóc dáng đất nước. Và cũng do thế, chính họ đã làm nên giá trị trường tồn của Huế, mà các thế hệ sau không được phép quên. Ở đây xin nhắc lại một vấn đề rằng là, “đừng để du khách muôn phương hiểu rằng văn hóa Huế chỉ là quần thể di tích triều Nguyễn và ẩm thực Huế, phải giới thiệu cho người ta biết Huế còn có bề dày 700 năm Văn học Nghệ thuật đã góp phần làm nên một Huế văn vật đầy thơ mộng song cũng đầy trí tuệ. Những giá trị đó còn lớn lao hơn rất nhiều so với quần thể di sản được UNESCO công nhận...”(1).

Riêng trong lĩnh vực văn học, tiền nhân đã làm cho nền văn học Huế có hai đặc tính quan trọng bao trùm: tính bác học và tính tiên phong. Có thể nhắc đến 9 đặc điểm nổi bật: 1. Vùng đất Thuận Hóa có nền văn học viết với khởi điểm đầy chất bác học; 2. Phú Xuân một thời là trung tâm văn học chữ Nôm của Việt Nam; 3. Phú Xuân thời Nguyễn là trung tâm văn học với sự tập trung nhân tài cả nước và nổi bật với sắc thái văn học hoàng tộc; 4. Cùng với dòng chảy lịch sử, nền văn học Huế có sự đóng góp của các nhà yêu nước, các nhà cách mạng lỗi lạc; 5. Huế là nơi đặt nền tảng cho lý luận văn học cách mạng; 6. Huế là nơi khởi phát nhiều trào lưu sáng tác mới và có những tác phẩm đỉnh cao: nơi Nguyễn Du viết Truyện Kiều; Thơ mới, thơ siêu thực phát triển...; 7. Huế là nơi xuất phát của văn học đấu tranh đô thị miền Nam; 8. Đặc biệt, các nhà văn nữ phá bỏ rào cản để viết nên những trang viết giải phóng sự ràng buộc tư tưởng; 9. Trong thời kỳ đổi mới, Huế là địa phương có nền văn học luôn đi đầu trong việc cổ súy những khuynh hướng sáng tạo mới.

Trái tim nhiệt huyết và tri thức cao vọi của những nhân tài đất Việt đóng góp cho đất nước trải dài theo mấy trăm năm lịch sử, đã truyền lửa qua bao thế hệ. Mỗi thời kỳ có sự thể hiện hành động yêu nước mang đặc điểm riêng khác nhau, nhưng tất cả đều đau đáu nỗi lòng ưu tư với đất nước và dân tộc. Họ thừa bản lĩnh để vượt qua mọi khó khăn để phụng sự đất nước với tinh thần Tổ quốc trên hết. Ở họ luôn đầy ắp lòng tự trọng, luôn dâng tràn khát vọng tự do, dân chủ, công bằng, vì độc lập và mạnh giàu của đất nước.

2.

Nhìn rộng ra cả nước. Từ Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đến nay, trí thức Việt Nam đã có sự phát triển nhanh về số lượng, góp phần to lớn trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Vượt trên tất cả, với nền tảng tri thức, họ đóng góp nhiều mặt trong việc phát triển toàn diện các lĩnh vực mà đất nước đòi hỏi. Bên cạnh đó, nhiều vị nhân sĩ trí thức chân chính đã để lại cho hậu thế những bài học tuyệt vời về tấm gương nhân cách, tấm gương làm người tuyệt đẹp.

Mới đây, đọc bài báo “Phải biết xấu hổ trước tiền nhân” của Chủ tịch nước Trương Tấn Sang (Tuổi Trẻ, ngày 23/8), chợt giật mình vì đúng là chúng ta lâu nay quá thờ ơ trong việc giữ gìn gương mặt của đội ngũ trí thức. Rất tiếc là đã có những tồn tại yếu kém của đội ngũ trí thức hôm nay, khiến gương mặt đáng kính mà dân tộc Việt Nam vốn tôn trọng chữ “Thầy” đã bị nhòe đi ít nhiều. Ví như có một bộ phận không nhỏ theo lối sống thực dụng, vụ lợi trong hành xử, ưa thành tích và đã chấp nhận sự giả dối một cách dễ dàng. Nhiều người thiếu lòng vị tha, không biết tôn vinh người tài. Một số người cơ hội để thu vén lợi ích vật chất tầm thường cho cá nhân. Một số người hời hợt trong tư duy, thiếu nghiêm túc trong nghiên cứu, giảng dạy và thiếu tinh thần hợp tác trong nghiên cứu khoa học. Những giả dối, cơ hội, thực dụng... vô hình chung đang làm nảy nở, xuất hiện dấu hiệu của tình trạng “học phiệt”. Dấu hiệu này nếu không ngăn chặn sớm, sẽ cản trở việc phát hiện nhân tài để họ đóng góp được nhiều hơn cho đất nước trong tương lai.

Thực tế cũng cho thấy đội ngũ trí thức Việt Nam còn nhiều hạn chế. Cả nước có khoảng 2,6 triệu người có trình độ đại học trở lên, chiếm 4,5% lực lượng lao động, trong đó có 18.000 thạc sĩ, 16.000 tiến sĩ và tiến sĩ khoa học, hơn 6.000 giáo sư và phó giáo sư. Tuy nhiên, đội ngũ trí thức hiện nay còn thiếu hiệu quả hoạt động. Số liệu thống kê sau đây phần nào cho thấy sự hạn chế đó: Từ năm 1998 đến năm 2002, toàn thế giới công bố 35 vạn công trình khoa học và công nghệ, trong đó, Mỹ đóng góp xấp xỉ 1/3 - 119.000 công trình, Singapore: 6.932 công trình, Thái Lan: 5.210 công trình, Malaysia: 2.088 công trình. Riêng Việt Nam chỉ có 250 công trình, chiếm chưa đến một phần nghìn của thế giới. Trong 5 năm, 2001 đến 2005, cả nước có 11 đơn đăng ký sáng chế gửi Tổ chức Sở hữu trí tuệ thế giới, trong khi đó số lượng của các nước khác là: Indonesia: 36, Thái Lan: 39, Nhật Bản: 87.620 và Mỹ: 206.710. Chỉ số phát triển kinh tế tri thức của Việt Nam mới chiếm 1,9%, tỷ lệ đóng góp vào tăng trưởng kinh tế do nhân tố trí tuệ chỉ khoảng 16%, tỷ lệ ngành công nghệ cao chiếm 15,7%. Xuất khẩu công nghệ cao mới có 2,5%, trong khi đó Thái Lan là 30%, Singapore là 59%...

Trong công cuộc đổi mới hiện nay, con người là nhân tố quan trọng quyết định, đặc biệt là những nhân tài. Tuy nhiên, cơ chế cho nhân tài - trí thức cống hiến hiện còn chưa thấu đáo. Tình trạng ấy nếu kéo dài, sẽ xuất hiện tình trạng mà người xưa hay âu lo: “sĩ phu ngoảnh mặt”.

Muốn “sĩ phu” không ngoảnh mặt, cần nắm được tâm tư, tình cảm, nguyện vọng của họ; phải biết cách đặt người trí thức vào đúng vị trí sở trường để họ có những đóng góp lớn nhất; biết cách thực hiện dân chủ một cách rộng rãi và thật lòng đối với trí thức; biết nhìn người trí thức bằng con mắt thiện cảm và bao dung, không thành kiến; biết cách lắng nghe và xem xét thấu đáo những ý kiến khác, mang tính phản biện của người trí thức; biết cách phân phối lợi ích, kể cả lợi ích nghiên cứu khoa học của những người trí thức... Trí thức cần được trọng đãi và cần được trọng dụng.

Bản thân Hồ Chí Minh là một trí thức yêu nước đi làm cách mạng. Người đã hết sức trọng dụng tầng lớp trí thức ưu tú của dân tộc, tạo điều kiện cho họ được cống hiến...

3.

Liên quan đến nhân tài đất nước, cần phải nói đến giáo dục, đào tạo - lĩnh vực có ý nghĩa quyết định trong việc nâng cao dân trí, tạo điều kiện đầu tiên và quyết định cho việc hình thành đội ngũ trí thức. Đây chính là khâu chuẩn bị một cách toàn diện về tri thức, thể chất, nhân cách, lối sống và những giá trị tinh thần, văn hóa quan trọng nhất cho lớp trẻ trở thành những trí thức tương lai.

Tuy nhiên, nền giáo dục của chúng ta hiện đang có nhiều vấn đề bất cập. Giáo dục phổ thông thì chương trình vẫn nặng nề, mà lại chưa chú ý đến giáo dục đạo đức, lối sống, tình cảm đối với quê hương đất nước. Năm 1961, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đưa ra nhận xét có ý nghĩa báo động đối với chương trình giáo dục: “Tôi xem chương trình giáo dục của 10 lớp, thì từ lớp 1 đến lớp 10, phần đức dục rất thiếu sót, chỉ có 10 dòng”. Hơn 50 năm qua, tình trạng ấy hầu như không được cải thiện là bao trong chương trình của 12 lớp hệ giáo dục phổ thông hiện nay. Giáo dục lòng nhân ái, lòng tự trọng một cách thấu đáo đang thiếu vắng trong các giảng đường. Đã có những hiện tượng tiêu cực dẫn đến sự quy đổi giữa tiền và điểm, tiền và bằng cấp và được số đông coi là chuyện đương nhiên. Có cảm giác như xã hội đang mặc nhiên coi chuyện chạy điểm cho con em, chạy thành tích cho học trò lâu ngày đã thành thói quen khó chữa khiến người ta quên rằng lòng tự trọng, lòng nhân ái là cao hơn hết và cần có mặt hơn hết! Có phải người ta đã quên đi lòng tự trọng, lòng nhân ái cần có hay không? Chúng ta không bi quan đến mức nói rằng người ta đã quên nhưng quả thật không thể dửng dưng trước câu hỏi đó.

Mọi đức tính tốt đẹp khác của con người đều xuất phát từ lòng nhân. Có lòng nhân và lòng tự trọng sẽ có các đức tính tốt đẹp khác, bởi phải nghĩ và giữ gìn tư cách của mình thì con người mới quyết tâm phấn đấu cho những điều cao đẹp. Vậy nên cần giáo dục lòng nhân ái và lòng tự trọng. Giáo dục lòng nhân ái không phải là kêu gọi có phần bắt buộc học sinh nộp tiền ủng hộ vùng này vùng kia bị thiên tai, mà thông thường người ta hay nhắm mắt làm cho xong để hoàn thành nhiệm vụ hơn là làm với một tấm lòng thương cảm sâu xa. Giáo dục lòng nhân phải bằng tấm lòng, phải có sự nối kết giữa gia đình - nhà trường - xã hội, và phải xuất phát từ sự cảm thương...

Nhân đây xin nhắc lại lá thư của cố tổng thống Mỹ Abraham Lincoln gửi thầy hiệu trưởng. Đó là một lá thư kêu gọi dạy cho con ông lòng thương cảm và lòng tự trọng, trong đó có những đoạn:

“Xin hãy dạy cho cháu biết cách chấp nhận thất bại và cách tận hưởng niềm vui chiến thắng. Xin hãy dạy cho cháu tránh xa sự đố kỵ. Xin hãy dạy cho cháu biết được bí quyết của niềm vui chiến thắng thầm lặng...

Xin hãy giúp cháu nhìn thấy thế giới kỳ diệu của sách, nhưng cũng hãy cho cháu có đủ thời gian để lặng lẽ suy tư về sự bí ẩn muôn thuở của cuộc sống: đàn chim tung cánh trên bầu trời, đàn ong bay lượn trong ánh nắng và những bông hoa nở ngát bên đồi xanh.

Ở trường xin thầy hãy dạy cho cháu biết chấp nhận thi trượt còn vinh dự hơn gian lận trong khi thi. Xin giúp cháu có niềm tin vào ý kiến riêng của bản thân, dù tất cả mọi người đều cho rằng ý kiến đó hoàn toàn sai lầm.

Xin hãy dạy cho cháu biết cách đối xử dịu dàng đối với những người hòa nhã và cứng rắn đối với những kẻ thô bạo. Xin tạo cho cháu sức mạnh để không chạy theo đám đông khi tất cả mọi người đều chỉ biết chạy theo thời thế.

Xin dạy cho cháu biết phải lắng nghe tất cả mọi người nhưng cũng cần phải sàng lọc những gì nghe được qua một tấm lưới chân lý để cháu chỉ đón nhận những gì tốt đẹp.

Xin hãy dạy cho cháu biết cách mỉm cười khi buồn bã. Xin hãy dạy cho cháu biết rằng không có sự xấu hổ trong những giọt nước mắt.

Xin hãy dạy cho cháu biết rằng có thể bán cơ bắp và trí tuệ cho người ra giá cao nhất, nhưng không bao giờ cho phép ai ra giá mua trái tim và tâm hồn mình.

Xin hãy dạy cho cháu ngoảnh tai làm ngơ trước một đám đông gào thét và đứng thẳng người bảo vệ những gì cháu cho là đúng. Xin hãy đối xử dịu dàng với cháu nhưng đừng vuốt ve nuông chiều cháu bởi vì chỉ có sự thử thách của lửa mới tôi luyện được những thanh sắt cứng rắn.

Xin hãy cho cháu biết rằng cháu phải luôn có niềm tin tuyệt đối vào bản thân bởi vì khi đó cháu sẽ có niềm tin tuyệt đối vào nhân loại”.


Rất nhiều người đã lặng đi khi đọc lá thư này.

Hiện nay, văn học, khối C đang trở thành môn học bị chối bỏ trong học sinh cuối cấp, đó phải chăng là hệ quả của lối giáo dục thờ ơ phát triển tâm hồn và nhân cách con người, chăm chăm chạy theo mưu sinh tương lai, không có lý tưởng nào ngoài nhăm nhắm vào cái đồng tiền mà học trò sẽ kiếm được khi ra đời... Vậy thì làm sao để có những lý tưởng cao đẹp xuất hiện?

Rõ ràng là còn rất nhiều việc phải làm để giáo dục, đào tạo nhân tài cho tương lai của đất nước...

H.T.A
(SH283/09-12)


...........................
(1) : “Nối tay muôn phương” - SH số 275 tháng 1/2012

 

 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...

  • Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.

  • 1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.

  • Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.

  • Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).

  • *Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.

  • Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...

  • Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.

  • I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.

  • Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.

  • Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.

  • I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.

  • Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.

  • Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.

  • Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...

  • Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.

  • Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.

  • Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.

  • Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...

  • Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.