KỶ NIỆM 50 NĂM CUỘC TỔNG TIẾN CÔNG VÀ NỔI DẬY TẾT MẬU THÂN 1968

14:45 23/01/2018

Những tượng đài thiêng liêng trong lòng dân Quảng Điền   

NGUYỄN QUANG HÀ
                         Bút ký 

Ảnh: internet

Cách đúng một tuần trước khi nổ súng phát hỏa tấn công trong chiến dịch Mậu Thân, lãnh đạo quân khu Trị Thiên về gặp du kích xã Quảng Thái, huyện Quảng Điền bàn với anh em:

- Để làm cho tư tưởng quân địch tan tác trước khi ta tấn công, cần có một cuộc binh vận bất ngờ, đó là việc phất cờ giải phóng giữa đất Cố đô. Chúng ta chỉ cần 2 người thôi, một người cầm cờ và một người cầm biểu chương. Dĩ nhiên cuộc ra quân bất ngờ này đầy nguy hiểm, rất dễ hy sinh. Ai dám xung phong đi nào?

Bí thư Huyện ủy cũng có ý kiến với anh em:

- Việc làm chưa từng có này trên đất Huế, chắc chắn sẽ gây một tiếng vang lớn. Dân sẽ bình luận: chỉ có kẻ trên thế thắng mới dám làm như thế. Với binh lính Ngụy thì coi đây là một đòn chí tử. Người lãnh nhiệm vụ đặc biệt này có thể hoàn thành nhiệm vụ xuất sắc nhưng cũng có thể bị bắn chết giữa đường. Thanh niên chúng ta ai dám nhận trọng trách này?

Hai mươi tư du kích ngồi đó thì có tất cả hai mươi tư cánh tay giơ lên, không một ai tỏ ra ngần ngại. Tất cả có chung một câu trả lời:

- Chúng tôi quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh.

Ai cũng hiểu đây là một nhiệm vụ quang vinh.

Kết quả, hai người được lãnh đạo chọn cho cuộc ra quân quyết liệt này. Đó là anh Hà Lề và anh Nguyễn Xuân.

Hà Lề có cha đi tập kết, ông đã trở lại chiến đấu trên quê hương và đã hy sinh, mẹ hiện đang là cơ sở thủy chung của cách mạng trên đất Quảng Thái này. Còn Nguyễn Xuân cũng có cha đi tập kết. Các em anh cũng đã thoát ly tham gia kháng chiến. Du kích không làm lễ truy điệu cho hai anh mà làm một bữa cơm chia tay trước buổi các anh lên đường.

Ngày Lề và Xuân lên đường là ngay sáng ngày hôm sau 25 tháng 12 năm 1967, đó là ngày lễ Noel; ngày hai bên đã cam kết ngừng bắn để đảm bảo bình yên cho đồng bào Thiên Chúa giáo đi dự lễ.

Hai anh mặc quần áo giải phóng, lưng thắt dây da to bản, đầu đội mũ tai bèo. Đúng 7 giờ sáng ngày 25/12, lá cờ nửa đỏ nửa xanh với ngôi sao vàng ở giữa tung bay ngay từ đất Quảng Lợi. Bên cạnh lá cờ là bức bích chương rộng màu xanh da trời, chữ trắng: “Xin hãy hòa bình cho đất nước chúng tôi”. Xuân và Lề không hề mang theo một tấc sắt làm vũ khí. Trong tay các anh lúc này chỉ có lá thư của chính quyền cách mạng gửi tỉnh trưởng Phạm Văn Khoa. Hai anh không được trực tiếp đọc lá thư có trong tay, chỉ được các anh nói lại nội dung bức thư ấy là: Nhân dân chúng ta rất đau khổ vì chiến tranh. Xin hãy ngưng súng, hai bên gặp gỡ nhau để bàn về hòa bình cho dân tộc. Tuy nhiên cả Xuân và Lề đều biết rằng lá thư chỉ là một cái cớ để cho cờ mặt trận tung bay giữa thành phố Huế. Lá cờ bay giữa lòng địch nhắc nhở với dân rằng mặt trận là chính nghĩa và chính nghĩa thì nhất định sẽ chiến thắng.

Lá cờ và bích chương của Lề và Xuân phấp phới bay tới đâu nhân dân đổ ra hai bên đường đứng xem và mừng rỡ. Ngày ngừng bắn không có lệnh thì không dám bắn. Chúng nhìn theo lá cờ một cách ngỡ ngàng. Cứ vậy, lá cờ hiên ngang đi đến tận cổng quận Quảng Điền. Lính trong quận chạy ra, đề nghị Xuân và Lề hạ cờ xuống, gấp cờ lại.

Anh Xuân và anh Lề trả lời ngay:

- Chúng tôi nhận nhiệm vụ vác băng cờ này. Băng cờ là tiếng nói đòi hòa bình của đồng bào cả nước, cả của các anh nữa, các anh cũng mong được sống trong hòa bình chứ? Chúng tôi có thư của Mặt Trận gửi ông tỉnh trưởng đây. Yêu cầu cho chúng tôi gặp ông quận trưởng.

Lời nói đúng ý, hợp tình nên lá cờ không bị cuộn lại. Lính gác vào báo cáo với quận trưởng. Quận trưởng Quảng Điền đồng ý cho vào. Xuân trao thư của chính quyền cách mạng gửi ông tỉnh trưởng Phạm Văn Khoa; không phải thư cho mình, quận trưởng không dám bóc. Ông điện lên Huế gặp tỉnh trưởng, tỉnh trưởng đồng ý đưa hai chiến sĩ cách mạng lên Huế.

Quận trưởng Quảng Điền phải cho xe Jeep chở Xuân và Lề đi. Ngồi trên xe hai chiến sĩ giải phóng quân cầm lá cờ bay phấp phới và dương cao bích chương trên tay. Chiếc xe Jeep lăn từ từ trên đất Cố đô. Dân phố hai bên đường đổ ra nhìn theo, ríu rít vẫy tay theo lá cờ.

Cờ Mặt Trận Dân Tộc Giải Phóng tung bay giữa ban ngày trên đất Cố đô, quả là một việc làm có một từ xưa đến nay. Chỉ riêng việc đó thôi, nhân dân Huế đã hiểu thế chiến thắng của cách mạng đến đâu rồi.

Chiếc xe Jeep vào thẳng dinh tỉnh trưởng trên đường Lê Lợi, con đường khang trang nhất Huế. Tỉnh trưởng nhận thư và đón tiếp hai anh. Xuân thưa:

- Thay mặt nhân dân đau khổ vì chiến tranh, chúng tôi chỉ yêu cầu hai bên gặp nhau để bàn bạc, thương lượng cho đất nước mau được thống nhất, mau được hòa bình.

Tỉnh trưởng tiếp nước các anh đúng thủ tục của một tỉnh trưởng đón khách. Ông nói:

- Điều các ông đề nghị chúng tôi sẽ bàn bạc và sẽ tính chuyện sau với Mặt Trận.

Tỉnh trưởng nhận thư, đọc thư, tiếp khách đúng thủ tục xong, hai bên tạm biệt nhau. Tỉnh trưởng lệnh cho xe Jeep chở hai chiến sĩ cách mạng trở lại quận Quảng Điền.

Lại một lần nữa lá cờ nửa đỏ nửa xanh bay phấp phới suốt chiều dài hơn hai chục cây số từ Huế về lại quận Quảng Điền.

Đến Quảng Điền, Xuân và Lề xuống xe, gửi lời chào quận trưởng và lại vác cờ đi trên con đường cũ trở lại xã Quảng Thái, nơi các anh xuất phát. Nhưng Xuân và Lề cảnh giác, về đến An Gia, các anh bỏ đường cũ, quấn cờ, gập bích chương tựa vào bóng cây xanh làm vật che khuất, băng tắt qua trảng cát trở về đến địa điểm xuất phát một cách an toàn.

Thật may, cảnh sát Quảng Điền đã tung quân mai phục ở An Gia. Lệnh là thấy các anh được quyền nổ súng tiêu diệt ngay. Chúng đã không hoàn thành nhiệm vụ này.

Quân khu Trị Thiên và tỉnh Thừa Thiên khen Quảng Điền đã mưu trí, dũng cảm thực hiện một cuộc binh vận rất xuất sắc.

Lời khen ấy rất có giá trị vì quân khu đang lặng lẽ chuẩn bị chiến dịch Mậu Thân chỉ sau đó một tuần lễ mà thôi.

Tin bộ đội giải phóng vác cờ xanh đỏ đi giữa đất Cố đô không đưa lên đài, lên báo, nhưng từ người nọ truyền tai người kia như một làn sóng ào ạt. Bà con bảo vậy là sắp hòa bình rồi, Mỹ sắp về nước rồi. Hòa bình ăn cháo cũng cam. Cha mẹ lính Cộng hòa khát khao hòa bình tác động nhanh nhất tới con cái mình. Anh em binh lính cũng chỉ chờ mong mau được về với vợ con.

Phát huy thắng lợi binh vận, Quảng Điền đang tính toán thời cơ để tấn công binh vận lần thứ hai. Thời cơ đã tới, đó là dịp Tết nguyên đán 1968. Lần này vùng hoạt động ngắn hơn. Ý định muốn nổ tung trong huyện của mình thôi. Hai mũi trung tâm muốn nhắm tới là Trung đoàn 3 Việt Nam Cộng hòa ở cây số 17 và quận Quảng Điền. Một cuộc tuyển chọn nhân tố dũng cảm kiên cường ở các đơn vị xã được tiến hành khẩn trương.

Bốn người được chọn lựa là: Hoàng Kim Thắng. Một thanh niên học trên Huế về. Anh đẹp trai, hát hay và luôn luôn là người can trường. Dương Thị Tho, một nữ du kích tháo vát, chị là Chủ tịch Hội Phụ nữ Phong Hiền. Hai người tiếp theo là Hoàng Kim Cuộc, hiện anh là trưởng công an thôn Cao Ban và anh Nguyễn Quốc Tròn, một du kích mẫu mực làng Niêm Phò xứng đáng là thế hệ đàn em người đồng thôn Nguyễn Chí Thanh.

Đêm chia tay, Dương Thị Tho về chào mẹ. Mẹ cầm tay chị nén dòng nước mắt: “Em con đã hy sinh. Con hãy trả thù cho em con. Nếu có chết cũng luôn nhớ là mình đã làm được một việc vì dân, vì nước con ạ”.

Cuộc và Tròn đi mũi Tứ Hạ. Đúng sáng mồng một Tết xuất phát. Các anh, chị đi không hề mang vũ khí. Chỉ có lá cờ nửa xanh nửa đỏ và sao vàng ở giữa trong tay và băng bích chương đòi hòa bình. Cuộc và Tròn từ xã Quảng Phú ra bến đò Hạ Lang. Chị cơ sở chở đò cho hai anh. Nhìn hai đứa em trẻ trung quá, chị nói: “Chị sợ các em hy sinh quá. Trẻ thế này mà hy sinh, chỉ nghĩ thế, chị đã đau lòng biết bao”. Nguyễn Quốc Tròn trả lời: “Được hy sinh cho quê hương, đất nước là một điều quang vinh chị ạ”. Chị nhìn hai người lên bờ, phăm phăm cầm cờ đi về phía cây số 17. Các anh đến trụ sở Trung đoàn 3 do trung tá Trương Như Thọ làm trung đoàn trưởng. Nguyễn Đình Cuộc nói với tên lính gác:

- Cho chúng tôi gặp trung tá Trương Như Thọ đưa lá thư này của mặt trận.

Thấy cờ giải phóng, bọn lính trong căn cứ chạy ra, chúng nói như ra lệnh:

- Hạ cờ xuống, quấn cờ, quấn băng rôn lại.

Nguyễn Quốc Tròn trả lời;

- Lá cờ của chúng tôi là yêu chính nghĩa, yêu hòa bình. Các anh có yêu chính nghĩa yêu hòa bình không mà bắt chúng tôi cuốn lại?

Mấy tên lính chạy vào báo cáo cho trung tá Thọ. Lát sau họ chạy ra bảo:

- Hãy để cờ và băng qua một bên, trung tá mời các anh vào.

Tròn và Cuộc dựng cờ, băng rôn vào ngay bên bót gác. Các anh vào được Thọ mời nước, tiếp chuyện đúng nửa giờ đồng hồ. Thọ nhận thư và hứa sẽ trả lời. Tròn và Cuộc ra về. Chị cơ sở vẫn đứng cắm sào đợi các anh ở bến. Nhưng lúc ấy trên bến đã có ba tên cảnh sát của quận Quảng Điền do tên Thành cầm đầu. Thành nhìn hai anh bằng con mắt thù hận. Tròn và Cuộc bước lên đò. Con đò vừa rời bến thì bọn Thành nổ súng. Tròn và Cuộc ngã ngay trên mặt đò. Chị lái đò òa khóc. Bọn Thành chuồn ngay không nói một lời. Chị lái đò đưa đò qua sông. Vừa chèo vừa hô hoán. Bà con Quảng Phú ra ôm hai anh lên bờ.

Một cụ già ôm Cuộc nấc lên:

- Chỉ muốn hai chữ bình yên thôi mà phải đổ máu. Trời ơi là trời.

Hoàng Kim Thắng và Dương Thị Thọ từ Phong Điền, cầm cờ băng và thư ra đồn Lai Xá. Đồn Lai Xá có một trung đội lính Cộng hòa. Đứng trước đồn, Hoàng Kim Thắng la to:

- Không được cản trở chúng tôi, hãy để chúng tôi lên quận đưa thư cho ông quận trưởng.

Lính Lai Xá gọi điện lên quận Quảng Điền, quận cho xe về đón hai người. Nhưng đến quận, thay vì quận trưởng tiếp anh chị, thì bọn cảnh sát đã chặn anh chị lại, chúng liền giơ roi quất vào hai người. Hoàng Kim Thắng nói:

- Chúng tôi không hề có vũ khí trong tay, chúng tôi đến đây để bàn hòa bình cho nhân dân Quảng Điền, các anh đánh chúng tôi là vô nhân đạo.

Bọn cảnh sát không ngừng tay. Đánh cho hai người tả tơi, chúng kéo Thắng và Thọ ra cồn mồ ngay trước cổng quận và bắn chết hai người ngay tại đó.

Chuyến ra đi của Cuộc, Tròn, Thắng, Thọ không mỹ mãn, nhưng các anh chị cũng đã gây được tiếng vang. Thêm một lần nữa, nhân dân thấy bọn tay sai của Mỹ tàn bạo đến nhường nào:

Anh em lính Cộng hòa bảo nhau:

- Chúng ta cậy vũ khí được trang bị tận răng mà nỡ hành hung người ta không hề có một tấc sắt trong tay, liệu lúc chúng ta thất thế, lúc ấy đừng có trách họ ác. Một người lính thở dài:

- Ôi! Khát vọng hòa bình!

Chỉ hơn 10 giờ đồng hồ sau khi Cuộc, Tròn, Thắng, Thọ bị giết thì tiếng súng mở màn cho chiến dịch Mậu Thân bùng nổ dữ dội. Sau loạt đại bác dội vào sân bay Phú Bài, ở tất cả 6 huyện và thành phố Huế của Thừa Thiên đều nổ súng nhất loạt tấn công vào tất cả các căn cứ kẻ thù. Các cuộc xuống đường đấu tranh chính trị của sinh viên trên đất Huế và những cuộc binh vận đầy sáng tạo đã đóng góp hết sức có hiệu quả cho tiếng súng mở đầu chiến dịch. Chỉ sau một đêm, quân giải phóng đã làm chủ Huế và làm chủ tất cả các căn cứ địch trong 6 huyện ngoại thành. Nếu hồn vía lính ngụy không suy vi, không tan tác làm sao giành được chiến thắng dễ dàng làm vậy.

Điểm lại các dữ kiện binh vận trong suốt cuộc kháng chiến chống Mỹ suốt từ sông Bến Hải đến mũi Cà Mau, không có nơi nào đánh trực tiếp vào tâm can lính ngụy như ở Quảng Điền. Duy nhất Quảng Điền dám tay không cầm cờ, cầm thư, cầm khẩu hiệu áp sát vào tận cơ quan đầu não của kẻ thù.

Hình ảnh những người chiến sĩ mặc áo quần giải phóng, đội mũ tai bèo, hiên ngang vác cờ nửa xanh nửa đỏ vào vùng địch chiếm trong tay không hề có một tấc sắt, chỉ có tấm lòng đòi hòa bình, đòi thống nhất, dù hình ảnh ấy chưa được một họa sĩ, một nhà điêu khắc nào tạo hình, song hình ảnh đó đã là, đang là và mãi mãi là pho tượng đài kiêu hãnh trong lòng nhân dân huyện Quảng Điền.

Tố Hữu viết: “Có những phút làm nên lịch sử. Có những phút hóa thành bất tử”. Những người du kích cầm cờ kia, dù họ chưa được phong tặng danh hiệu anh hùng, dẫu họ rất xứng đáng với danh hiệu ấy, song họ đã bất tử, đã đi vào lịch sử của thời chống Mỹ trên đất Thừa Thiên Huế này.

Thiết nghĩ bất cứ lúc nào họ được phong tặng danh hiệu anh hùng đều xứng đáng cả.

Xin nói thêm về Nguyễn Xuân, Hà Lề. Hà Lề đã hy sinh trong cuộc chống càn năm 1969 và Nguyễn Xuân bị lật hầm cùng hai đồng đội của mình, anh đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng. Cha và các em của hai anh đều đã hy sinh anh dũng cho cuộc kháng chiến. Bà Nguyễn Thị Cháu, mẹ Nguyễn Xuân và bà Phan Thị Ngùy, mẹ Hà Lề, đều đã được Nhà nước phong tặng danh hiệu Bà Mẹ Việt Nam Anh Hùng.

Về Quảng Điền bây giờ sẽ được những người dân ở đây kể về Xuân, về Lề, về Cuộc, về Tròn, về Thắng, về Tho như những chuyện đang còn nóng hổi của ngày hôm nay, đủ hiểu nhân dân Quảng Điền tự hào về những người con của mình biết bao nhiêu.

N.Q.H  
(TCSH347/01-2018)


 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • HUY CẬN - XUÂN DIỆU
          Trích "Hồi ký song đôi"

    Tháng 8 năm 1928 cậu tôi được lệnh của Sở học chính Trung kỳ đổi về Huế làm hiệu trường trường tiểu học Queignec ở phố Đông Ba.

  • LÊ QUANG KẾT
             Bông hồng dâng mẹ 

    Vua Tự Đức - ông vua tại vị gặp cơn biến động trong lịch sử dân tộc, sinh thời nhà vua đã tán dương công ơn mẹ: “Nuôi ta là mẹ, dạy ta cũng là mẹ: Mẹ là Thầy vậy. Sinh ra ta là mẹ, hiểu ta cũng là mẹ: Mẹ là Trời vậy”.

  • TRẦN HOÀN
                Hồi ký

    Năm 1941 thi vào trường Quốc Học, tôi đỗ vào loại khá nhưng chưa đủ mức để được cấp học bổng toàn phần.

  • BỬU Ý

    Hàn Mặc Tử (Nguyễn Trọng Trí) từng sống mấy năm ở Huế khi còn rất trẻ: từ 1928 đến 1930. Đó là hai năm học cuối cùng cấp tiểu học ở nội trú tại trường Pellerin (còn gọi là trường Bình Linh, thành lập năm 1904, do các sư huynh dòng La San điều hành), trường ở rất gần nhà ga tàu lửa Huế. Thời gian này, cậu học trò 17, 18 tuổi chăm lo học hành, ở trong trường, sinh hoạt trong tầm kiểm soát nghiêm ngặt của các sư huynh.

  • LÊ QUANG KẾT
                   

    Giai điệu và lời hát đưa tôi về ngày tháng cũ - dấu chân một thuở “phượng hồng”: “Đường về Thành nội chiều sương mây bay/ Em đến quê anh đã bao ngày/ Đường về Thành nội chiều sương nắng mới ơ ơ ơ/ Hoa nở hương nồng bay khắp trời/ Em đi vô Thành nội nghe rộn lòng yêu thương/ Anh qua bao cánh rừng núi đồi về sông Hương/ Về quê mình lòng mừng vui không nói nên lời…” (Nguyễn Phước Quỳnh Đệ).

  • VŨ THU TRANG

    Đến nay, có thể nói trong các thi sĩ tiền chiến, tác giả “Lỡ bước sang ngang” là nhà thơ sải bước chân rong ruổi khắp chân trời góc bể nhất, mang tâm trạng u hoài đa cảm của kẻ lưu lạc.

  • TRẦN PHƯƠNG TRÀ

    Đầu năm 1942, cuốn “Thi nhân Việt Nam 1932-1941” của Hoài Thanh - Hoài Chân ra đời đánh dấu một sự kiện đặc biệt của phong trào Thơ mới. Đến nay, cuốn sách xuất bản đúng 70 năm. Cũng trong thời gian này, ngày 4.2-2012, tại Hà Nội, Xuân Tâm nhà thơ cuối cùng trong “Thi nhân Việt Nam” đã từ giã cõi đời ở tuổi 97.

  • HUYỀN TÔN NỮ HUỆ - TÂM
                                      Đoản văn

    Về Huế, tôi và cô bạn ngày xưa sau ba tám năm gặp lại, rủ nhau ăn những món đặc sản Huế. Lần này, y như những bợm nhậu, hai đứa quyết không no nê thì không về!

  • LƯƠNG AN - NGUYỄN TRỌNG HUẤN - LÊ ĐÌNH THỤY - HUỲNH HỮU TUỆ

  • BÙI KIM CHI

    Nghe tin Đồng Khánh tổ chức kỷ niệm 95 năm ngày thành lập trường, tôi bồi hồi xúc động đến rơi nước mắt... Con đường Lê Lợi - con đường áo lụa, con đường tình của tuổi học trò đang vờn quanh tôi.

  • KIM THOA

    Sao anh không về chơi Thôn Vỹ
    Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên        
          
                       (Hàn Mạc Tử)

  • NGUYỄN VĂN UÔNG

    Hôm nay có một người du khách
    Ở Ngự Viên mà nhớ Ngự Viên         
     

    (Xóm Ngự Viên - Nguyễn Bính)

  • HOÀNG THỊ NHƯ HUY

    Tôi biết Vân Cù từ tấm bé qua bóng hình người đàn bà gầy đen, gánh đôi quang gánh trĩu nặng trên vai, rảo khắp các xóm nhỏ ở Thành Nội, với giọng rao kéo dài: “Bún…bún…ún!” mà mẹ đã bao lần gọi mua những con bún trắng dẻo mềm.

  • LÊ QUANG KẾT                
                      Tùy bút

    Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

  • TỪ SƠN… Huế đã nuôi trọn thời ấu thơ và một phần tuổi niên thiếu của tôi. Từ nơi đây , cách mạng đã đưa tôi đi khắp mọi miền của đất nước. Hà Nội, chiến khu Việt Bắc, dọc Trường Sơn rồi chiến trường Nam Bộ. Năm tháng qua đi.. Huế bao giờ cũng là bình minh, là kỷ niệm trong sáng của đời tôi.

  • LÊ QUANG KẾT

    Quê tôi có con sông nhỏ hiền hòa nằm phía bắc thành phố - sông Bồ. Người sông Bồ lâu nay tự nhủ lòng điều giản dị: Bồ giang chỉ là phụ lưu của Hương giang - dòng sông lớn của tao nhân mặc khách và thi ca nhạc họa; hình như thế làm sông Bồ dường như càng bé và dung dị hơn bên cạnh dòng Hương huyền thoại ngạt ngào trong tâm tưởng của bao người.

  • HUY PHƯƠNG

    Nỗi niềm chi rứa Huế ơi
    Mà mưa trắng đất, trắng trời Thừa Thiên         
                          
                                              (Tố Hữu)

  • PHAN THUẬN AN

    Huế là thành phố của những dòng sông. Trong phạm vi của thành phố thơ mộng này, đi đến bất cứ đâu, đứng ở bất kỳ chỗ nào, người ta cũng thấy sông, thấy nước. Nước là huyết mạch của cuộc sống con người. Sông là cội nguồn của sự phát triển văn hoá. Với sông với nước của mình, Huế đã phát triển theo nguyên tắc địa lý thông thường như bao thành phố xưa nay trên thế giới.

  • MAI KIM NGỌC

    Tôi về thăm Huế sau hơn ba thập niên xa cách.Thật vậy, tôi xa Huế không những từ 75, mà từ còn trước nữa. Tốt nghiệp trung học, tôi vào Sài Gòn học tiếp đại học và không trở về, cho đến năm nay.

  • HOÀNG HUẾ

    …Trong lòng chúng tôi, Huế muôn đời vẫn vĩnh viễn đẹp, vĩnh viễn thơ. Hơn nữa, Huế còn là mảnh đất của tổ tiên, mảnh đất của trái tim chúng tôi…