LÊ TỪ HIỂN
Ảnh: tư liệu
1. Vốn có cội nguồn sâu xa từ văn học dân gian nhưng cái kỳ ảo - văn học kỳ ảo chỉ thực sự ra đời từ đầu thế kỷ XIX, cái mốc ở tập truyện ngắn kỳ ảo của Hoffman. Sang thế kỷ XX, khái niệm Fantastic được mở rộng. Nó chẳng những gợi lên những gì từ thế giới bên kia, những cái siêu phàm… mà gọi lên những gì trái ngược với kinh nghiệm và với các nguyên tắc lý tính, những gì đưa lại một trật tự mới, một kích thước mới. “Cái kỳ ảo do vậy, gắn liền với khó khăn cá nhân, với sự lo âu, sợ hãi trước kẻ xa lạ”.
Vai trò của cái kỳ ảo được hình thành và gia tăng, tiếp biến qua những mốc phát triển của tiến trình văn học Việt Nam. Văn xuôi trung đại với Truyền kỳ mạn lục (Nguyễn Dữ) đầy những phương thức mộng ảo, những vụ án truyền kỳ, quan hệ thực - ảo, tình yêu người - ma… Cái kỳ ảo trong văn xuôi hiện đại với Vàng và máu, Trại Bồ Tùng Linh (Thế Lữ), Yêu ngôn (Nguyễn Tuân), Truyện đường rừng (Lan Khai)… Và sự trở lại của cái kỳ ảo tạo nên dòng chảy trong văn xuôi đương đại với Truyện không nên đọc lúc giao thừa, Mảnh đất lắm người nhiều ma (Nguyễn Khắc Trường)… Và các tác giả tiêu biểu như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Bình Phương… Lối viết của những nhà văn này, kể từ cuối thập niên 1980 đã cho thấy có sự khác lạ với chính họ trước đó và với cả những nhà văn cùng thời. Nó khẳng nhận sự tồn tại, xác lập vai trò, chức năng nghệ thuật của cái kỳ ảo trong văn học đương đại, tạo sức hút đam mê ở độc giả. Khởi xướng trường phái tu từ học tiểu thuyết, W.Booth cho rằng mọi cách thức, thủ pháp kỹ thuật trong truyện kể chỉ hướng đến mục đích duy nhất là tạo ra sức hấp dẫn ma thuật cho truyện kể từ năng lực của người cầm bút. Từ cấu trúc văn bản nội tại mở ra ngoại vi trong tương quan với các phương diện xã hội, lịch sử, ngữ cảnh đặc thù… chuyển truyện kể vào không gian văn hóa theo phương pháp tiếp cận liên ngành và sức quyến rũ ma thuật của truyện kể sẽ biến hóa đa dạng trong các “chân trời đón nhận” khác nhau tùy lúc, kích thích nhiều diễn giải khác nhau như một hằng số.
Văn học đương đại toát ra ấn tượng đặc biệt đầy sức ám ảnh kỳ lạ, đa nghĩa mơ hồ, những cảm thức lạ lùng đa chiều kích về đời sống. Yếu tố kỳ ảo được gia tăng góp phần hình thành đặc điểm của hư cấu nghệ thuật. Việc nghiên cứu cái kỳ ảo như một bình diện nghiên cứu văn học ở Việt Nam mới thực sự nổi lên từ sau năm 2000. Có thể kể đến những công trình tiêu biểu: Văn học kỳ ảo nhìn từ hệ hình thế giới quan (La Khắc Hòa), Cái kỳ ảo như một hiện tượng văn hóa (Lê Nguyên Cẩn)… Cái kỳ ảo và vai trò nghệ thuật của nó trong Văn học Việt Nam qua cái nhìn tổng quan trong bài viết Vai trò của cái kỳ ảo trong truyện và tiểu thuyết Việt Nam (Đặng Anh Đào). Nội hàm khái niệm này được tổng kết dưới góc độ thể loại văn học kỳ ảo như một quy ước đã được chấp nhận với hai tiền đề cơ bản: Yếu tố siêu nhiên - Một phản ứng lưỡng lự giữa cái thực và cái huyễn hoặc của nhân vật và độc giả. Yếu tố kỳ ảo được gia tăng một cách dụng ý/ vô ý và mang hàm nghĩa rộng hơn trong văn đương đại, cái ảo không đối lập với cái thực mà cả hai đều là những biểu hiện khác nhau của hiện thực theo dụng ý sáng tạo và hiệu quả tiếp nhận. Yếu tố kỳ ảo là một thủ pháp được sản sinh bằng trí tưởng tượng, khả năng suy tưởng, liên tưởng, kết nối thực và ảo, có và không, trống và đầy… trong mạch ngầm những ám ảnh sợ hãi với cái siêu nhiên, hình tượng ma quái, không - thời gian, hai cõi âm - trần đồng hiện đa chiều… Những yếu tố con người không thể cắt nghĩa, giải thích bằng lý trí thông thường, bằng cách này cách khác… mà thông qua trạng thái cuộc sống - chiều sâu tâm hồn chỉ có thể cảm nhận bằng văn hóa tâm linh - phạm trù triết mỹ.
2. Trong sự dần hình thành một thế giới quan mới, yếu tố kỳ ảo trong văn xuôi đương đại thể hiện sự đổi mới quan niệm nghệ thuật, con người tâm linh trong thế giới đa chiều, sự hữu hình hóa cái ác, giấc mơ về giá trị chân thiện mỹ, cảm hứng triết mỹ nhận thức lại thực tại. Nguyễn Huy Thiệp được xem là nhà văn sử dụng yếu tố kỳ ảo sớm nhất giai đoạn sau Đổi mới, trộn nên mạch hồn Liêu trai phương Đông và kinh dị phương Tây trong giọng văn kiêu bạc mà trữ tình, thế sự - đời tư mà triết lý. Sự thể hiện yếu tố kỳ ảo trong tác phẩm bắt nguồn từ những tiền đề xã hội, bị chi phối bởi bầu tâm lý xã hội đương thời. Kinh tế bao cấp đầy trì trệ dẫn đến khủng hoảng; quan liêu gia cố dẫn đến khủng hoảng niềm tin, tư tưởng, nhân cách; mâu thuẫn xã hội lên cao, mạng người như cỏ rác dẫn đến xao động nhân tâm. Đó là nỗi đau thực tại trong sư tử già - cô độc… làm nên những tín hiệu kỳ ảo nhấp nháy trong chiều sâu mạch ngầm truyện Nguyễn Huy Thiệp. Những chi tiết kinh dị đầy ấn tượng hãi hùng thể hiện đầy ám ảnh sự tha hóa, xuống cấp của nhân cách con người. Chảy đi sông ơi… ấy là lẽ tự nhiên, là ý nguyện tốt lành sự sống… Nhưng cũng khổ thay trong sự quẩn quanh, sông qua làng thường chảy chậm… nói chi dòng sông đời người. Chi tiết khi lửa bốc cao thì ở trong quán có con chuột to bằng bắp chân người phóng thẳng ra ngoài cứ cười hềnh hệch… thể hiện sự khủng khiếp của lão trùm Thịnh. Cún - biểu tượng cho những nhân cách chưa được thành người ám ảnh người đọc bởi hình hài mềm oặt, dị dạng lại kết hợp với một khuôn mặt đẹp lạ lùng và đôi mắt biết nói…
Có truyện đậm đặc màu sắc siêu nhiên như Những ngọn gió Hua Tát với kiểu tọa độ không - thời gian siêu thực phủ bọc trong bầu không khí huyền thoại nhưng không xuất hiện trạng thái bất ổn, gay cấn. Đây là yếu tố kỳ ảo truyền thống được tái sinh tái hiện với chi tiết hoang đường phóng đại qua việc sử dụng giọng kể nhại cổ tích đã thấp thoáng nét hiện đại được xem như một phương thức xây dựng huyền thoại mới trên cơ sở hóa giải huyền thoại cũ. Ngẫu nhiên, ngẫu nhiên và ngẫu nhiên… trong sự chuyển hóa những mặt đối lập: họa - phúc, may - rủi, hạnh phúc - đau khổ… đa diện, đa trị hóa. Nàng Bua trở thành người giàu nhất bản, nhất Mường… từ sau khi ngẫu nhiên đào được một chum đầy vàng bạc. Nàng trở thành người đàn bà hạnh phúc khi lấy một người thợ săn hiền lành góa bụa và không con cái. Nhưng sự giàu có ấy đã không mang lại cho nàng hạnh phúc trọn vẹn. Nàng đã chết khi trở dạ đẻ giữa đống chăn mềm ấm áp. Huyền thoại hóa các quan hệ đời sống, làm lung linh bức tranh nghệ thuật. Nhân vật Hàm cùng em trai bày mưu kế, giành quyền lực… đẩy vợ - bà Son - đến chỗ uất ức tự tử. Đêm đêm, ông Hàm thường thấy bà về nhà như có ánh sáng rọi vào những vùng u tối của tâm can lão (Mảnh đất lắm người nhiều ma - Nguyễn Khắc Trường). Huyền thoại được khai thác nhằm biểu đạt những hiện tượng lạ lùng, kỳ quái, thực hư… trong cuộc sống, trong nhận thức, hay ít nhất trong mê cung tự lánh mình của chính nhà văn.
Kỳ ảo gắn liền với nghệ thuật lạ hóa làm nhân vật biến dạng, dị dạng. Trong Kiếm sắc, Đặng Phú Lâm bị chém đầu, máu phun ra không đỏ mà trắng phau như nhựa cây, một lúc sau thì bết lại. Trong Phẩm tiết, yếu tố kỳ ảo được sử dụng nhằm thiêng hóa nhân vật trong cuộc sống với tất cả tính tương đối của nó. Vẻ đẹp tuyệt đối mang dáng dấp thần kỳ của Vinh Hoa được tô đậm bằng chi tiết: khi sinh ra nàng, trên nóc nhà có đám mây ngũ sắc bay đến tỏa ánh sáng rực rỡ, khắp nơi hương thơm ngào ngạt. Ký ức hiện hữu. Cái đẹp tái sinh tái tạo. Anh hùng và giai nhân… Ngón tay Vinh Hoa khi chạm vào mắt Nguyễn Huệ, trên ngón tay hiện lên một vết chàm. Cảnh bốc mộ Vinh Hoa gây ấn tượng cùng những suy nghĩ gợi mở: biết hay không biết chỉ là những ước lệ mơ hồ có tính lịch sử. Bản chất cái ảo như bầu không khí chủ đạo trong thế giới nghệ thuật của Nguyễn Bình Phương gắn liền với Quái biến hóa phong phú, như những điềm linh, điềm triệu trong Những đứa trẻ chết già; dị thường, đẹp man rợ, mang khoái lạc trong Thoạt kỳ thủy. Chính vì vậy, xét trên bình diện thẩm mỹ - thể loại tiểu thuyết thời đổi mới thể hiện lối tư duy đa nghiệm về con người, về số phận cá nhân, mang tính cách phong phú trên nhiều phương diện, sắc thái, cung bậc… Một thế hệ nhân vật mới trong văn xuôi đương đại mang tính cách đa dạng hơn, cả bản thể tâm linh và tình dục không còn là “miền đất cấm” vốn được miêu tả rụt rè, khô cứng, lấy có… mà được tạo dựng thành những tính cách đa dạng theo chiều sâu.
Thiện - Ác như hai giọt nước nhiều khi nằm bên nhau, hòa vào nhau… khó lòng phân biệt. Trong thế giới đa chiều, rất thực mà bí ẩn tâm linh, yếu tố kỳ ảo còn là sự hữu hình hóa cái ác và giấc mơ về những giá trị chân thiện mỹ. Cứu tinh (Hồ Anh Thái) nói về sự tàn nhẫn vô lương. Nạn dịch, Muối của rừng, Chiếc tù và bị bỏ quên (Nguyễn Huy Thiệp) trong không gian tâm trạng với những con người tâm linh dằn vặt, đổ vỡ. Như vậy trong xu hướng nghiêng về cảm hứng khai thác, khám phá mặt trái đời sống, vẫn ánh lên cái nhìn bao dung, độ lượng, le lói niềm tin bất diệt vào bản tính tốt đẹp của con người. Tiệc xòe vui là khẳng nhận, ngợi ca lòng trung thực - thiện tính đáng quý và khó kiếm nhất, hơn cả sự dũng cảm, khôn ngoan và giàu có của người đời. “Tuổi trẻ là gì? Một giấc mơ. Tình yêu là gì? Nội dung của giấc mơ đó” (Soren Kierkegaard).
Ảo - thực trộn lẫn hàm chứa tính triết mỹ của nghệ thuật, tính tương đối của cuộc đời. Hai dạng: cái ảo cô đọng triết lý (nhà Phật) và cái ảo có tính nghịch dị góp phần làm nên đặc trưng trang văn Hồ Anh Thái - “người mê chơi cấu trúc” (Nguyễn Đăng Điệp). Rừng kim tước là khu rừng của những thiếu nữ chưa bao giờ được làm người. Những tập tục nặng nề dội lên đầu những người con gái như Nilam sự bất hạnh tận cùng, và chính nàng tận tay gieo những sự sống bất hạnh như mình xuống đất, như một lối thoát cuối cùng. Tiếng thở dài của những sinh linh đã hóa thân thành những cây Kim Tước hóa biểu tượng oan khuất người phụ nữ Ấn Độ ngàn đời gánh chịu và đồng vọng phương Đông (Tiếng thở dài qua rừng Kim Tước).
3. Thế giới ảo là một phần của sự sống. Nghệ thuật - văn học kỳ ảo là một kiểu sáng tạo, một phương thức tư duy hiện thực của người nghệ sỹ làm nên bức tranh vũ trụ siêu nhiên bí ẩn cứ như nó là. Đời sống, con người, văn học, thực ảo… mãi biến thiên với nhu cầu đào sâu tìm hiểu, giải phóng cái tôi cá nhân, tự do, giới tính, hiện sinh…
Trong tiến trình lịch sử văn học dân tộc, những nhà văn Đổi mới tiêu biểu có tầm cỡ khu vực và vươn ra thế giới như Nguyễn Huy Thiệp, Hồ Anh Thái, Nguyễn Xuân Khánh, Nguyễn Bình Phương… với những tác phẩm phong phú, tiềm tàng, đa trị, đa phong cách… làm nên ý nghĩa phục hưng. Trong đó có sự trở về, sống lại yếu tố kỳ ảo góp phần làm nên cái nhìn đa chiều - đa trị thân phận con người, con người cá nhân, nỗi đau, bi kịch đời thường, vẻ đẹp, khát khao trần thế - tục lụy - tâm linh, giá trị nhân bản. Đề tài chiến tranh vẫn được tiếp nối, khai thác nhưng có sự đổi mới ở cách viết, cách nhìn nhận số phận con người ở nhiều chiều cảm xúc. Truyện của Nguyễn Huy Thiệp đầy ma lực là sự phóng chiếu giữa quá khứ và hiện tại, giữa dòng tâm tưởng và nhân vật rất thật trong đời sống khi đạo đức suy đồi - số phận người cô đơn lạc lõng giữa thường ngày. Tướng về hưu là câu chuyện về thế sự - đời tư nhẹ nhàng mà thâm thúy với sự chuyển hóa điểm nhìn linh hoạt đem đến những chiều kích mới của hiện thực cuộc sống và con người mang quan niệm đa trị hóa cái nhìn về cuộc đời trong văn chương. Cái nhìn của thế hệ đại diện cho những giá trị cũ như ông tướng Thuấn mang kiểu cô đơn của người bước ra từ cuộc chiến… cứ như lạc loài… mãi ôm nỗi đau đớn về thể xác và tâm hồn gặm nhấm nốt quãng đời cô độc còn lại. Cái nhìn nông cạn hời hợt đậm tính thực dụng của cô dâu Liên… Ăn là trên hết. Cái nhìn bất lực của người con trai. Cái nhìn trẻ thơ hồn nhiên đầy ám ảnh của hai cô cháu gái… Người con dâu ông tướng đi mua vải liệm vào đúng lúc người mẹ chồng đang ốm bỗng ngồi dậy dạo chơi và ăn được cơm… sau đó lăn ra chết. Ấy là trạng thái đáng ngại, âu lo, ranh giới mập mờ giữa cái kinh dị và cái thực trong cái chẳng siêu nhiên mà đầy cái bất thường trong Tướng về hưu gợi lên bao ám ảnh vừa huyễn hoặc vừa rất thực ngay trong cuộc sống hôm nay. Viết rạch ròi trần trụi mà người đọc phải chau mày… Liệu lương tri con người có cứu rỗi được sự tha hóa, bần cùng của cuộc sống thực dụng mà con người khôn ngoan - lì lợm lâu ngày đã mất hết cảm giác yêu thương. Ngoài trời lại có trời. Trong người thực và ảo. Việc của tôi, của người, của trời…
Cái kỳ ảo là một hình thái nhận thức thẩm mỹ đã nhận được sự quan tâm đặc biệt của giới sáng tác và nghiên cứu văn học thế giới. Xu hướng ảo hóa như một hướng tìm một hiện tượng điều chỉnh để tìm thứ cân bằng trong cảm hứng sáng tạo của nghệ sỹ và cảm thụ nghệ thuật của công chúng. Trong bối cảnh văn hóa toàn cầu, sự trở lại với cái kỳ ảo ở Việt Nam có ít nhiều đứt đoạn, chậm hơn… nhưng vẫn có được thành tựu và ý nghĩa trong cuộc sống đời thường, dân chủ hóa, đa diện đa điểm đa chiều tạo tính mơ hồ, lưỡng trị. Mỗi thời đại thường có một hệ hình thế giới quan tạo nên loại hình lịch sử của văn học kỳ ảo. Liệu trong tính dự báo, triển vọng… kỳ ảo có góp phần làm nên những đỉnh cao về giá trị tư tưởng nghệ thuật, đạt tính đa văn hóa như cây cầu nối những giá trị nhân văn qua mọi không - thời gian.
L.T.H
(TCSH387/05-2021)
NGUYỄN VĂN DÂNNgười ta cho rằng tiểu thuyết có mầm mống từ thời cổ đại, với cuốn tiểu thuyết Satyricon của nhà văn La Mã Petronius Arbiter (thế kỷ I sau CN), và cuốn tiểu thuyết Biến dạng hay Con lừa vàng cũng của một nhà văn La Mã tên là Apuleius (thế kỷ II sau CN).
HẢI TRUNGSông chảy vào lòng nên Huế rất sâuBản hùng ca của dãy Trường Sơn đã phổ những nốt dịu dàng vào lòng Huế, Hương Giang trở thành một báu vật muôn đời mà tạo hóa đã kịp ban phát cho con người vùng đất này. Chính dòng Hương đã cưu mang vóc dáng và hình hài xứ Huế. Con sông này là lý do để tồn tại một đô thị từ Thuận Hóa đến Phú Xuân và sau này là Kinh đô Huế, hình thành phát triển đã qua 700 năm lịch sử.
HÀ VĂN THỊNH Nhân dịp “Kỷ niệm 50 năm Đại học Huế (ĐHH) Xây dựng và Phát triển”, ĐHH xuất bản Tạp chí Khoa học, số đặc biệt – 36, 4.2007.
NGÔ ĐỨC TIẾNNăm 1959, nhân dịp vào thăm Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, đến gian trưng bày hiện vật và hình ảnh đồng chí Phan Đăng Lưu, đồng chí Lê Duẩn phát biểu: “Đồng chí Phan Đăng Lưu là một trí thức cách mạng tiêu biểu”.
NGUYỄN KHẮC MAITháng 3 –1907, một số sĩ phu có tư tưởng tiến bộ của Việt Nam đã khởi xướng thành lập Đông Kinh Nghĩa Thục tại Hà Nội với mục đích “khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh” hô hào xây dựng đời sống mới mà giải pháp then chốt là mở trường học, nâng dân trí, học hỏi những bài học hoàn toàn mới mẻ về dân chủ, dân quyền, dân sinh, dân trí, cả về sản xuất kinh doanh, xây dựng lối sống văn minh của cá nhân và cộng đồng.
HỒ THẾ HÀ Thật lâu, mới được đọc tập nghiên cứu - phê bình văn học hay và thú vị. Hay và thú vị vì nó làm thỏa mãn nhận thức của người đọc về những vấn đề văn chương, học thuật. Đó là tập Văn chương - Những cuộc truy tìm(1) của Đỗ Ngọc Yên.
ĐOÀN TRỌNG HUY
Huy Cận có một quãng đời quan trọng ở Huế. Đó là mười năm từ 1929 đến 1939. Thời gian này, cậu thiếu niên 10 tuổi hoàn thành cấp tiểu học, học lên ban thành chung, sau đó hết bậc tú tài vào 19 tuổi. Rồi chàng thanh niên ấy tiếp tục về học bậc đại học ở Hà Nội.
NGUYỄN KHẮC THẠCHTrước hết phải thừa nhận rằng, từ ngày có quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình Văn học Nghệ thuật cho các Hội địa phương thì các hoạt động nghề nghiệp ở đây có phần có sinh khí hơn. Nhiều tác phẩm, công trình cá nhân cũng như tập thể được công bố một phần nhờ sự kích hoạt từ quỹ này.
THẠCH QUỲTrước hết, tôi xin liệt kê đơn thuần về tuổi tác các nhà văn.
TÙNG ĐIỂNLTS: “Phấn đấu để có nhiều tác phẩm tốt hơn nữa” là chủ đề cuộc tập huấn và hội thảo của các Hội Văn học Nghệ thuật khu vực miền Trung và Tây Nguyên tại thành phố Nha Trang đầu tháng 7 vừa qua. Tuy nhiên, ngoài nội dung đó, các đại biểu còn thảo luận, đánh giá hiệu quả sử dụng quỹ hỗ trợ sáng tạo tác phẩm, công trình văn học nghệ thuật trong mấy năm gần đây.Nhiều ý kiến thẳng thắn, tâm huyết, nhiều tham luận sâu sắc chân thành đã được trình bày tại Hội nghị.Sông Hương xin trích đăng một phần nội dung trên trong giới hạn của chuyên mục này.
PHẠM PHÚ PHONGMột đặc điểm tương đối phổ biến của các tác giả sáng tác ở miền Nam trước đây là hầu hết các nhà văn đều là những nhà văn hoá, tác phẩm của họ không chỉ thể hiện sự am hiểu đến tường tận các lĩnh vực văn hoá, mà trong một đời văn lực lưỡng của mình, họ không chỉ sáng tác văn chương mà còn sưu tầm, dịch thuật, khảo cứu nhiều lĩnh vực văn hoá như lịch sử, địa lý, địa chí, ngôn ngữ, dân tộc học, văn học và văn hoá dân gian, như các tác giả từng toả bóng một thời là Trương Vĩnh Ký, Huỳnh Tịnh Của, Nguyễn Chánh Sắt, Đông Hồ, Vương Hồng Sển, Nguyễn Văn Xuân, Sơn Nam... trong đó có Bình Nguyên Lộc.
PHAN KHÔILời dẫn Bài mà tôi giới thiệu dưới đây thuộc một giai đoạn làm báo của Phan Khôi còn ít người biết, − giai đoạn ông làm báo trên đất Thần Kinh, tức thành phố Huế ngày nay, những năm 1935-1937; khi ấy Huế đang là kinh đô của triều Nguyễn, của nước Đại Nam, nhưng chỉ là một trung tâm vào loại nhỏ xét về báo chí truyền thông trong toàn cõi Đông Dương thời ấy.
PHONG LÊÔng là người cùng thế hệ, hoặc là cùng hoạt động với Nam Cao, Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng, Như Phong... Cùng với họ, ông có truyện trên Tiểu thuyết thứ Bảy và Trung Bắc chủ nhật trong những năm 1941-1945. Cùng hoạt động trong Hội Văn hóa cứu quốc đầu Cách mạng tháng Tám, và tham gia xây dựng văn nghệ kháng chiến, làm tờ Tạp chí Văn nghệ số 1 - tiền thân của tất cả các cơ quan ngôn luận của Hội Văn nghệ và Hội Nhà văn Việt Nam.
TRẦN VĂN SÁNGCó thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc.
TRẦN THỊ MAI NHÂNNgười ta kể rằng, ở Ấn Độ, trong cái nhộn nhịp của cuộc sống, con người thường nghe văng vẳng tiếng gọi: “Hãy chở ta sang bờ bên kia”. Đó là tiếng gọi của con người khi “cảm thấy rằng mình còn chưa đến đích” (Tagore).
HOÀNG THỊ BÍCH HỒNGKhái niệm “Lạ hoá” (estrangemet) xuất hiện trong những năm 20 của thế kỷ XX gắn với trường phái hình thức Nga. Theo Shklovski thì nhận thức của con người luôn có xu hướng tự động hoá để giảm bớt năng lượng tư duy, “người ta thường dùng những từ quen thuộc đến sờn mòn”(1).
VÕ THỊ THU HƯỜNGTrời đất bao la mênh mông, ẩn chứa thật nhiều những bí mật mà con người chúng ta không ngừng khám phá mỗi ngày và cũng đã đạt được rất nhiều thành tựu mới mẻ và kỳ lạ.
TZVETAN TODOROV Lời dẫnNền văn chương đang lâm nguy (La littérature en péril)(1), đó là tựa đề cho cuốn sách mới nhất, vừa được xuất bản ở Pháp của nhà lý luận văn học nổi tiếng: Tzvetan Todorov - đại biểu xuất sắc của chủ nghĩa cấu trúc, tác giả của nhiều công trình khoa học tầm cỡ.
LẠI NGUYÊN ÂN 1. Phạm trù chủ nghĩa cá nhân (individualisme) của tư tưởng phương Tây được Phan Khôi (1887-1959) đề cập từ cuối những năm 1920 đầu những năm 1930, khi mà một trong những đề tài thu hút ngòi bút viết báo của ông chính là vấn đề thời sự của đời sống văn hoá tư tưởng đương thời: trạng thái và số phận của những tư tưởng cổ truyền phương Đông trước một xu thế đang diễn ra trên chính phương Đông, được gọi là xu hướng “Âu hoá”.
HỒ THẾ HÀPhân tâm học ra đời đánh dấu một bước ngoặt quan trọng trong việc nhận thức những vấn đề thầm kín, vi diệu nhất của tâm sinh lý con người. Nó trở thành khoa học phân tích tâm lý chiều sâu của mọi hành vi trong đời sống ý thức và vô thức của mỗi cá thể người.