Khúc tri âm hay là tiếng lòng đi tìm tiếng lòng đồng vọng

14:49 11/06/2009
LÊ THỊ HƯỜNGTrong căn phòng nhỏ đêm khuya, giai điệu bản sonat của Beethoven làm ta lặng người; một chiều mưa, lời nhạc Trịnh khiến lòng bâng khuâng; trong một quán nhỏ bên đường tình cờ những khúc nhạc một thời của Văn Cao vọng lại làm ta bất ngờ. Và cũng có thể giữa sóng sánh trăng nước Hương Giang, dìu dặt, ngọt ngào một làn điệu ca Huế khiến lòng xao xuyến.

Giữa thị trường âm nhạc xô bồ hiện nay, may mắn thay vẫn có những con người trên đất Huế, trên đất Việt và ở hải ngoại vẫn ý thức tìm về âm nhạc cổ truyền Huế. May thay, tập lời ca Huế - Khúc tri âm đã trở thành một gạch nối mềm mại, một sự níu giữ dịu dàng giữa Huế xưa và nay.
"... Với lòng yêu ca Huế sâu sắc từ trong máu thịt, nhiều năm qua, trong bộn bề công việc của một nhà thơ kiêm nhà quản lí văn nghệ, anh Võ Quê đã lặng lẽ, âm thầm sáng tác nên tập lời ca Huế này" (Hồng Nhu. Lời giới thiệu Khúc tri âm. Nhà xuất bản Thuận Hoá. 2000). Vâng, Khúc tri âm là tập lời ca Huế của một nhà thơ của "một thuở xuống đường" và trên hết là một nhà thơ nặng lòng với Huế.

Đứng trên góc độ nghệ thuật âm nhạc, để có một ca khúc hay, có sức lắng đọng và tạo hiểu quả cảm xúc thẩm mỹ phải phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Sức biểu hiện của ca Huế, ngoài nhịp phách, giai điệu, âm sắc... có thể nói ca từ chiếm vị trí quan trọng. Lời ca của Khúc tri âm mang đậm hồn quê hương xứ Huế đã góp phần lưu giữ một nét đẹp của sinh hoạt văn hoá độc đáo ở xứ thần kinh.

Với Võ Quê, một trong những nguyên nhân khơi nguồn cho dòng cảm xúc trôi chảy ngân nga là Huế, vùng đất của những bản tình ca, của những khúc tri âm làm xúc động lòng người. Khúc tri âm chính là tiếng lòng, đi tìm và gởi đến những tiếng lòng tri âm tri kỉ.

Tập lời ca gồm 27 bài (mỗi khúc ca chính là một bài thơ) được Võ Quê viết theo những làn điệu ca Huế phổ biến: Cổ bản, Phú lục, Tứ đại cảnh, Tương tư khúc, Nam ai, Nam bình. Khảo sát về mặt chủ đề, tập lời ca Huế của Võ Quê thiên về thiên nhiên cảnh vật và tâm hồn Huế. Không phải ngẫu nhiên mà Võ Quê đặt tên cho đứa con tinh thần anh đã "lặng lẽ thai nghén" từ tình yêu sâu nặng với Huế là Khúc tri âm.

Khúc tri âm chính là sự giao cảm, là tri âm giữa con người và thiên nhiên xứ thần kinh. Mùa xuân gợi nhiều cảm xúc cho Võ Quê. 9/27 khúc ca có nhan đề là mùa xuân được viết ở các làn điệu: Tiếng đàn xuân, Bức tranh xuân, Cánh diều xuân, Mùa xuân gõ nhịp, Sắc xuân hồng, Xuân ca... Viết về một thi đề quen thuộc, dẫu chưa có những khoảnh khắc "thôi sao" trong cách dùng từ nhưng ca từ của Võ Quê cũng đầy sức gợi:
            Đất xanh cành
            Cây nẩy lộc
            Mầm đơm
            Mùa xuân dậy nồng hương
            Nối tình nhau muôn kiếp
            Chẳng hề tan
                        (Khúc xuân tình. Tứ đại cảnh)

Ca từ của Võ Quê luôn vươn tới cái đẹp. Cảnh vật, hương sắc thiên nhiên Huế khúc xạ qua tiếng lòng tri âm của tác giả dường như bừng sáng hơn. Võ Quê đã dịch chuyển cái đẹp của tự nhiên, đất trời xứ thần kinh vào thế giới lời ca dìu dặt của mình. Trong mỗi lời ca dường như có những giai điệu bắt nguồn từ tiếng "sương đọng vườn ai rơi nhẹ", Tiếng "nhịp chèo" âm vang sông nước, tiếng hót của "chim chiều thu bay", hay tiếng "sáo diều dập dìu bay xa". Đặc biệt, vầng trăng của một cõi Huế riêng luôn ánh ngời, lung linh biến hoá qua cảm nhận của một Võ - Quê - thi - sĩ (Lời ca gọi vầng trăng, Bài ca trăng I-II, Nguyệt cầm...). Từ lâu trăng đã trở thành chiếc cầu nối tương giao tương hợp giữa thiên nhiên và nội tâm. Và phải chăng vầng trăng trên đất Huế đã trở thành một hình tượng thẩm mỹ khơi nguồn sáng tạo của các ngành nghệ thuật. Chúng ta đã từng gặp những "sông trăng", "bến trăng", "vườn trăng", "dòng trăng", "thuyền trăng"... trở thành những con chữ dành riêng cho trăng Huế. Đến với Khúc tri âm, người nghe, người đọc lại bất ngờ với "trăng vườn hạ nghiêng soi, trăng âm điệu; trăng ngân cung đàn; trăng nghiêng vàng đường cũ, bóng trăng bên trời, trăng sáng sương cài, theo em về ánh vàng thầm đưa..."

Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian và ca nhạc cung đình, ca Huế là sự kết nối giữa chất dân gian và bác học, Khúc tri âm đồng vọng những giai điệu dân ca Huế. Võ Quê đã mượn những câu hò mái nhì man mác, những "câu ca cũ đa mang nửa đời", những "câu ca điệu lí cảm hoài nhớ thương" để khơi tạo cảm hứng, cảm xúc, tạo thêm độ luyến láy cho lời ca. Mỗi lời ca (với cấu tứ của một bài thơ) chính là một khúc tình ca Huế. 27 khúc ca trong tập là từng ấy khúc nhạc thiên nhiên và khúc nhạc lòng. 13/27 bài có nhan đề là những khúc ca (Lời ca gọi vầng trăng. Tửu hứng ca, Hoà âm, Bài ca trăng I, II...), lời ca "khúc hoàng mai, khúc xuân tình lai láng, khúc tình chung, khúc ca đêm đồng cảm, khúc ca giao mùa, khúc ca xuân thuỷ, khúc ân tình...".

Trong ca từ của Võ Quê có hình ảnh quê hương, có bóng mẹ, vầng trăng và bước chân ai đó trong đêm; có hoa bưởi trong vườn khuya, có tình yêu, nỗi niềm tri kỉ và có cả những mỏng mảnh kiếp người:
            Một bóng về khuya
            Em âm thầm đường xa đơn độc
            Cây rơi lá vô hình
            Vàng phai cô tịch, đàn ai nhịp
            Tịch tình tang
            Khúc "phượng cầu" xưa xúc động tình em
            Đường về dài theo đêm
                        (Biết ai thầm đưa. Tương tư khúc)

Lời ca của Võ Quê còn là Khúc tri âm giữa con người và con người, là tiếng lòng đi tìm tiếng lòng đồng điệu. Có lúc mượn làn điệu Nam ai man mác, vấn vương, tác giả bộc bạch nỗi niềm:
            Từng tiếng nhạc ngân vang
            Khiến tâm hồn ta mãi hoài vương
            Lời ca gởi muôn phương
            Thuỷ chung vô vàn
                        (Hoà âm. Nam ai)

Có lúc qua làn điệu Tứ đại cảnh đan xen nhiều cung bậc cảm xúc nhà thơ hoá thân thành khách thể trữ tình, hoà vào giọng hát của người ca sĩ ngân nga trên sông nước để gởi một nỗi niềm:
            Dòng sông nhỏ sóng thầm xao
            Thơm hương cỏ đêm êm ả
            Cung đàn gởi tri âm
                        (Lời ca gọi vầng trăng. Tứ đại cảnh)

Hình ảnh người em xứ Huế với một chút ngậm ngùi "kiếp cầm ca" cứ láy đi láy lại trong lời ca của tác giả qua những bài thuộc điệu Nam vốn mang nét buồn, vướng vít, đôi lúc bi ai như Nam ai, Nam bình, Tương tư khúc...
            Khuya gió đông lành lạnh
            Đường vắng em về bóng trăng kề
            Ánh vàng thầm đưa, mảnh trăng thề
                        (Gió thu về. Nam ai)      

Với Nguyệt cầm, lời thơ, lời nhạc, điệu Nam bình dặt dìu mang lại một cái hồn rất xưa mà nhà thơ đã kế thừa và tái tạo cảm xúc cho người nghe:
            Phím xưa rung lên
            Tình tự khuya này
            Cung đầy cung khuyết
            Khúc nam ai nam bình
            Da diết
            Dìu dặt tơ đời
            Bóng trăng đêm...
                        (Nguyệt cầm)

Cái đẹp trong lời ca của Võ Quê đôi lúc còn mang tính chất ước lệ, chẳng hạn cái đẹp của "gió thu gầy", "phím loan tơ chùng", của "lá thu rơi vàng"... Ca từ của Võ Quê đôi chỗ còn trau chuốt, bay bướm theo lối cũ. Ngôn từ của lời ca đôi lúc lặp, nhưng trên hết vẫn là tấm lòng nặng tình với Huế của anh trĩu ở từng câu chữ.

Hoà trong những lời ca Huế khác, Khúc tri âm của Võ Quê đã đem lại cảm xúc nhẹ nhàng từ những giai điệu ngọt ngào. Phách đàn nhịp với lời ca vang lên giữa sông - nước - sương - trăng dập dềnh, chênh chao trong men say giai điệu đã làm vướng vít lòng bao người ở Huế, đến Huế và xa Huế.

L.T.H
(177/11-03)

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NHỤY NGUYÊN

    Truyện ngắn của Nguyên Quân trong Vòng tay tượng trắng (Nxb. Văn Học, 2006) khá mộc mạc ở cả đề tài và lối viết, nhưng cũng nhờ cái mộc mạc đó đã hút được nguồn nguồn mạch sống.

  • QUÁCH GIAOMùa Xuân Đinh Hợi đến với tôi thật lặng lẽ. Cây Thiết Mộc Lan nơi đầu ngõ năm nay ra hoa muộn song lại tàn trước Tết. Hoa trong sân nhà chỉ lưa thưa vài nụ Bát Tiên. Hai chậu mai không buồn đâm hoa trổ nụ. Đành thưởng xuân bằng thơ văn của bằng hữu.

  • NHỤY NGUYÊN

    (Đọc Ngày rất dài - Thơ Đoàn Mạnh Phương, Nxb Hội Nhà văn, 2007)

  • TRẦN THÙY MAI(Đọc Đức Phật, nàng Savitri và tôi, tiểu thuyết của Hồ Anh Thái, Nhà xuất bản Đà Nẵng, 2007)

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ(Nhân đọc “Nhà văn Việt Nam hiện đại” - Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản, 5-2007)Trong dịp kỷ niệm 50 năm thành lập Hội Nhà văn Việt Nam (1957-2007), Ban chấp hành Hội Nhà văn Việt Nam (HNVVN) đã xuất bản công trình quan trọng “Nhà văn Việt Nam hiện đại” (NVVNHĐ), dày 1200 trang khổ lớn, tập hợp chân dung trên một ngàn nhà văn các thế hệ, từ các cụ Ngô Tất Tố, Phan Khôi… cho đến lớp nhà văn vừa được kết nạp cuối năm 2006 như Nguyễn Danh Lam, Nguyễn Vĩnh Tiến, Phan Huyền Thư…

  • BÍCH THU(Đọc Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức, Nxb Văn học, 2007)Tô Hoài - Đời văn và tác phẩm của Hà Minh Đức là cuốn sách tập hợp những ghi chép và nghiên cứu về nhà văn Tô Hoài, một tác gia lớn của văn học Việt Nam hiện đại. Đây là cuốn sách đầu tiên kết hợp hai phương diện ghi chép và nghiên cứu, góp một cách tiếp cận đa chiều và cập nhật về con người và sự nghiệp của nhà văn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Từ đá vắt ra  của Trần Sĩ Tuấn)Chiếc áo choàng mà tác giả nói ở đây là chiếc áo blouse trắng của người thầy thuốc. Tác giả là bác sĩ. Chắc anh đang làm thơ về nghề nghiệp của mình.Trong đời có bốn bậc thầy được nhân dân ngưỡng mộ: Thầy thuốc chữa bệnh, thầy giáo dạy học, thầy cúng, thầy phù thủy cùng dân tìm cõi tâm linh.

  • HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

  • VĂN CẦM HẢIVề phía biển, là thường nhân di du với cõi minh mang nhưng Nguyễn Thanh Tú, biển là nơi anh được vời vợi nỗi cô đơn của một loài thân phận có tên là thơ!

  • MAI VĂN HOANHồn đầy hoa cúc dại là tập thơ thứ bảy của Lâm Thị Mỹ Dạ. Thơ Dạ đã có rất nhiều người bàn luận, bình phẩm. Mỗi người có một cách cảm nhận riêng. Bài viết của Ngô Minh mới đây giúp cho độc giả biết thêm những uẩn khúc, những góc khuất trong cuộc đời của Dạ.

  • DUNG THÙYĐây là tập thơ đầu tay của tác giả Nguyễn Thị Anh Đào do NXB Đà Nẵng ấn hành với cảm xúc tròn đầy và một tâm hồn nồng ấm. Là một cây bút trẻ đang độ sung sức, chị có nhiều thơ và truyện ngắn đăng trên các báo, tạp chí và Ngày không trở lại gói ghém những niềm riêng.

  • LÝ HẠNH(Đọc Thơ tặng của nhà thơ Ngô Minh)Ngô Minh là nhà thơ, nhà văn, nhà báo, vì thế mà cố nhà văn Nguyễn Xuân Hoàng đã từng nói về ông một cách trìu mến: “Ba con người trong một con người thâm thấp”. Có một điều đặc biệt, chính con người thâm thấp ấy đã phân thân thành 3 con người khác nhau, mà con người nào cũng “ra hồn ra vía” cả.

  • FRANCOIS BUSNELKiran Desai là nữ văn sĩ người Ấn Độ. Cô sinh năm 1971 tại Dehli. Là con gái của nữ tiểu thuyết gia Anita Desai. Kiran Desai lớn lên và học tiểu học ở Dehli đến năm 14 tuổi. Sau đó, cô cùng mẹ sang Anh Quốc, rồi Hoa Kỳ, học trung học ở tiểu bang Massachussettes. Cô theo học lớp viết văn ở Virginie và sau đó học Đại học Columbia ở NewYork.

  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.