LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Đi qua miền sơn cước lớp lớp mây mù giăng trên những đầu núi, vượt đèo A Co, những cơn gió đông của A Lưới heo hút, lạnh băng xộc từ những hẻm núi sâu táp sa mặt mũi.
Người Pa cô vui tết Aza, ảnh LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
Cái lạnh vùng sơn cước miền Tây rét buốt làm tê rần da thịt, lên hai bàn tay lỡ chạm nhẹ vào gió trời lao xao giữa đường vắng. Cái lạnh thơm hương của những đóa hoa rừng e ấp nở đâu đó trên rừng xa. Mỗi lần lên chốn này, bài hát “Nụ cười sơn cước” của Tô Hải ngân vang, gởi lòng hoa trắng không tàn với khúc nhạc xuân đồng điệu giữa cảnh sắc núi rừng.
Ngày những bông lúa cuối cùng đã được tuốt hết nơi nương xa, đem về phơi phóng bỏ vào kho, mùa lễ hội Aza - Tết mừng cơm mới, cũng bắt đầu rộn rã khắp các veel (làng) Pa Cô. Ngỡ như núi rừng A Lưới xích đến bên nhau, cùng nắm tay hòa điệu Pâr-lư truyền thống bên lửa ấm nồng, bỏ mặc cơn giá rét không ngớt rủa hờn mưa gió. Miền sơn cước A Lưới, thường vụ mùa kết thúc vào giữa tháng 10 Âm lịch khi tiết trời se sắt. Chúng tôi đến đón tết Aza tại làng Đụt, xã Hồng Trung, huyện A Lưới cùng đồng bào Pa Cô nơi đây.
Đường vào làng sũng nước, cỏ cây lướt thướt trong màn mưa dày dặc. Phía cuối làng, mây sà cả xuống ruộng nương, khiến lòng người như tiếc nuối cái màu xanh mới đây thôi còn phủ khuất những thớ đất nâu. Cứ nhìn mãi cảnh mưa gió ấy, tết cơm mới lẩn lụt đâu mất theo bước chân qua hàng dậu thưa. Vậy mà, càng sâu vào làng, lửa bếp ấm nồng thắp sáng những ngôi nhà nấp kín dưới bóng cây ướt. Khói xông từ nhà ra ngõ, từ ngõ ra đường, đường phủ sương. Chúng tôi háo hức hẳn lên, bước nhanh vào một nhà sát đường nơi có ông Quỳnh Hồ - Trưởng làng Đụt đương chờ.
Lễ Aza còn được gọi với các tên khác như: Tết cơm mới, Lễ tri ân cây lúa. AZa là một trong những truyền thống văn hóa đặc sắc của người Pa Cô, một cái tết của đồng bào khi kết thúc vụ mùa, là cái tết tiễn đưa năm cũ, đón chào năm mới, chuẩn bị cho mùa vụ mới. Lễ Aza một năm được tiến hành một lần, với đồng bào Pa Cô là để cầu mong nương rẫy xanh tươi, mùa màng bội thu, nhà cửa bình an, mọi người trong nhà khỏe mạnh, không ốm đau, năm mới phát đạt, no ấm, con cái học hành tiến bộ hơn. Tết cơm mới Aza cũng là tết đoàn tụ, người Pa Cô dù làm ăn, sinh sống ở đâu cũng cố gắng về quê, sum họp cùng gia đình, cùng veel như người Kinh về nhà ngày tết Nguyên Đán. Có lẽ vì thế, Aza mang màu sắc tết của gia đình, dòng họ và của veel.
Để có những lễ vật dùng để cúng tế trong lễ Aza, người làng phải chuẩn bị từ những ngày trước đó. Mọi công việc ở các gia đình đều được phân công chu đáo, người lên rừng, kẻ ra nương, người ở nhà lo liệu các việc. Họ đặc biệt chú ý nấu món bánh Aquâr bằng nếp thật thơm dẻo, một loại bánh ví như bánh chưng, bánh tét trong tết cổ truyền của người Kinh. Những con vật trong nhà nuôi lớn được như gà, vịt, heo, dê… tùy khả năng của mỗi nhà được làm thịt để cúng tế. Các thứ nông sản do gia đình thu hoạch được từ ruộng nương về. Ngoài ra, đồng bào còn phân công người lên rừng bẫy thú, ra khe suối bắt cá để làm món ăn cúng các Giàng.
Thường thì công việc chuẩn bị được tiến hành trước ngày Aza một vài ngày. Đến ngày đã ấn định lễ, đại diện hội đồng làng sẽ đánh lên những tiếng trống da dê để báo hiệu thời khắc Aza đã đến. Ngày nay, do điều kiện sinh hoạt, tiếng kẻng sắt đã thay thế cho tiếng trống ngày xưa. Sau tiếng báo hiệu, các nhà bắt đầu dâng lễ cúng mời thần linh về dự lễ Aza. Các thần linh được cúng trong lễ Aza bao gồm: Giàng Tro - giống như Thần Nông của người Kinh, đại diện cho cây trồng; Giàng Pơnanh - thần Chăn nuôi, đại diện cho gia súc; Giàng Panuôn - thần Buôn bán; Giàng Sưtarinh - Thần Đất, cùng các thần núi, thần sông, thần suối, cây cỏ, động vật… Rồi còn có lễ vật dành cho các thần làng, dòng họ, rồi ông bà cha mẹ… Như vậy, hầu hết các thần đều được cúng trong dịp Aza. Một lễ Aza đầy đủ thường qua các bước nghi lễ truyền thống như: lễ giao ước, lễ tẩy rửa lễ chuẩn bị vật chất, lễ cúng Aza, nghi lễ ăn tết Aza chung cả làng.
Mâm cúng tế ngày lễ Aza không nhà nào giống nhà nào, tùy thuộc vào hoàn cảnh vật chất và năng suất vụ mùa của mỗi gia đình. Đồng thời, sự khác nhau cũng bắt nguồn từ thần của dòng họ khác nhau của đồng bào. Những phẩm vật được mang cúng được chia làm 2 loại, thực vật và động vật. Thực vật bao gồm: lúa và nếp là lễ vật chủ đạo, được nấu thành cơm, hoặc làm bánh Aquâr; khoai, sắn, môn, mía, ngô… Các phẩm vật động vật là những con vật nuôi trong nhà như dê, lợn, gà, vịt hoặc thú rừng săn bắn được luộc hoặc nướng. Đặc biệt, hầu như nhà nào cũng cố gắng săn được một con chuột rừng để dâng lên các Giàng. Từ chuột rừng, người Pa Cô làm món Adut hay còn gọi là Alap là món trộn thịt chuột, nếp, sắn, đọt chuối và một vài gia vị khác. Đây là món đặc sắc của người Pa Cô trong ngày lễ Aza.
Đặc biệt, có một tín vật hết sức linh thiêng và không thể thiếu để thực hiện một nghi lễ trong quá trình tổ chức Aza là tâng-họt, được vót từ những cây tre nhỏ bằng cây đũa, tạo thành 3 tầng, y như những bông hoa bám lên thân tre. Chúng được cắm trên các lễ vật dâng cúng trong Aza. Sự đa dạng của lễ vật và món ăn được tăng thêm màu thiêng hóa bởi những bông hoa tre tâng-họt trắng trên màu tối của lễ vật, của không gian hành lễ.
Không gian của lễ cúng Aza trở nên lung linh, ấm cúng hơn khi những tấm dzèng treo quanh. Những tấm dzèng là phức hợp hoa văn vô cùng phong phú và đa dạng, tái hiện lại những chi tiết gắn liền với đời sống của đồng bào Pa Cô. Chúng thể hiện sự khang ninh của một gia đình, qua cách thể hiện lối tạo hoa văn bằng cườm một cách công phu, đầy sáng tạo. Các tấm dzèng được treo bên trên mâm tế hay treo quanh không gian bày lễ, tùy theo cách của mỗi gia đình.
Người nhà xông khói được lấy từ thân cây thông rừng, phả ra mùi hương dịu nhẹ, quyện không khí linh thiêng khắp nhà. Trong làn khói mờ ảo ấy, người chủ, đại diện cho cả gia đình ngồi bên mâm cúng tế tự mình xưng cầu những điều tốt lành, xung quanh con cháu chăm chú lắng nghe. Thi thoảng những tiếng chiêng, trống da dê vang lên đệm nhịp. Họ khấn rất lâu, chủ yếu là những lời tán dương các thần đã phù hộ trong mùa cũ, năm cũ, cầu mong các thần gia ân trong mùa mới, năm mới.
Xong lễ cúng, người nhà cùng nhau ném hoa tre tâng-họt lên rui nhà hoặc các vị trí cao như tủ, góc mái trong nhà. Tâng-họt đậu trên các vị trí ấy càng nhiều thì may mắn, thành công trong năm mới sẽ đến nhiều hơn với gia đình. Đây là phần nghi lễ tại nhà vui nhất, từ trẻ đến già mọi người đều phấn khởi lấy tâng-họt của mình để ném.
Người bạn trong chuyến đi của chúng tôi còn kể rằng, ở lễ Aza của đồng bào Pa Cô cũng có nghi thức giống đồng tiền âm dương sấp ngửa của người Kinh mỗi lần cúng vái. Đó là ở gia đình ông Ku Đanh, lâu lâu có 2 mảnh tre, được gọi là avõ-tâng-lân lâu lâu được ném lên sau mỗi câu xướng tên các giàng. Khi 2 mảnh avõ-tâng-lân rơi xuống, ông Ku Đanh nhìn chúng gật gù hay lắc đầu tùy vào cách rơi của chúng. Avõ-tâng-lân còn được các trưởng lão đem ra dùng tại Moòng chung hỏi những cơ sự của veel. Nghi thức này của người Pa Côcho thấy có mối tương đồng hoặc có sự ảnh hưởng từ dân tộc Kinh .
Sau khi tổ chức cúng các Giàng trong nhà xong, nhà nào cũng lấy một phần lễ vật mang đến nhà chung của làng để góp lễ chung vui với mọi người trong làng. Theo truyền thống, mỗi nhà tự giác góp chung lễ vật vào mâm lễ cúng tế của làng, không có sự phân biệt giàu nghèo. Lễ Aza của làng mang ý nghĩa cúng Giàng chung của cả làng. Đó là những vị thần bảo hộ cho làng và những người thành lập làng. Trước đây, khi chưa có Moòng chung, tức nhà sinh hoạt cộng đồng hiện nay, phần lễ vật giành cho làng sẽ được mang đến nhà dài, nhà sàn của trưởng làng để chung vui. Từ khi có Moòng chung, Aza của làng được tổ chức ở đây.
Lễ vật mang ra Moòng chung thường là những lễ vật ngon nhất của gia đình. Bóng dáng các em, các mẹ tay xách, lưng gùi lễ vật đi trong cơn mưa ướt át, giá lạnh trông rất thương. Con đường vào Moòng chung nhoèn nhoẹt đất đỏ, bùn lấm cả chân nhưng ai cũng tươi vui đi dự lễ.
Sau khi các gia đình trong làng tề tựu đến nhà sinh hoạt cộng đồng đông đủ, trưởng làng báo hiệu, bà con bắt đầu khấn nguyện sự yên bình, hòa hợp và no ấm cho làng. Trưởng làng và một vài vị cao niên đại diện cho làng, cho các dòng họ trong làng đứng ra làm lễ. Chốc chốc, dứt một lần tế với những câu xướng danh các giàng, một hồi chiêng nổi lên. Dứt hồi chiêng, việc cầu khấn lại tiếp tục. Sau đó, cũng như ở nhà riêng, ai cũng cầm hoa tre tâng-họt ném lên trần nhà sinh hoạt cộng đồng và vui cười.
Vậy là lễ Aza đã xong. Trưởng làng đánh chiêng báo hiệu sự mừng vui của làng cho mùa mới, năm mới bắt đầu. Khi Trưởng làng đánh chiêng, tiếng trống da dê cũng được cất lên hòa điệu chung vui. Đó là nghi thức đầu tiên, sau khi dứt giai điệu chiêng trống ngân vang ấy, nam thanh nữ tú trong làng bắt đầu đi vòng quanh nơi cúng giàng của làng và múa điệu pơchiêngcoon, điệu múa đầu tiên trong lễ Aza. Điệu múa tôn vinh thần mặt trời, vị thần mang lại sự ấm áp và xanh tươi của sự sống. Tiếp theo, các cô gái trong làng lại múa điệu tuốt lúa, tái hiện công việc nương rẫy của mùa đã qua và mong muốn một mùa mới bội thu. Đồng thời, đó còn là điệu múa mừng giàng Tro- vị thần nông nghiệp của người Pa Cô. Sự tôn vinh các thần qua từng nhịp điệu và qua trình tự các điệu múa tiếp diễn nhau.
Bên ché rượu cần, bếp lửa hồng, mùa đông tái tê như không còn ngự trị, dân làng ấm niềm vui trong ngày tết cơm mới. Khói xuân khi ấy từ đại ngàn tràn về chung hội cùng đồng bào. Khói ủ lên mái tranh, khói bay qua những vườn cây ướt lá, lan xa trong tiếng chiêng, tiếng trống mùa lễ Aza dưới chân núi Târ-coong.
bút ký của Lê Vũ Trường Giang
L.V.T.G
(SH312/02-15)
LÊ HUỲNH LÂMCó thể gọi xứ Huế là thành phố của những tiếng chuông. Sự khởi đầu của một ngày, một ngày mai hun hút trong tương lai cũng như một ngày tận trong nghìn trùng quá khứ. Một ngày mà âm thanh từ đại hồng chung phát ra; vang, ngân, vọng và im bặt. Người ta gọi âm thanh đó là tiếng chuông. Vậy thì, im bặt cũng là một phần của tiếng chuông.
MINH CHUYÊNCảnh làng mới Trà Tân cuối chiều mùa đông. Con suối chảy qua nước trong veo, róc rách. Phía tây con suối cách làng chừng nửa tầm mắt là rừng Sắc Rông, đủ các loại cây tầng tầng, lớp lớp. Cánh rừng đang chìm trong sương chiều. Rừng hoang vắng, huyền bí. Người ta kể sau ngày chiến tranh chấm dứt, rừng Sắc Rông càng trở nên bí ẩn. Người chỉ có vào mà không có trở ra. Vậy mà mấy tháng gần đây lại thường xuyên xuất hiện một người đàn bà ở đó.
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGNgày xưa nhà mẹ nghèo hung, cơm không có ăn, khố không có mặc, suốt ngày lang thang trong rừng đào củ mài củ sắn kiếm cái cho vào bụng. Có ngày không tìm được chi, bụng đói lắc lư.
NGUYỄN KHẮC PHÊTrước ngày Huế khởi nghĩa 23/8/1945, có một sự kiện khiến cả thành phố náo nức vui mừng: đó là việc lá cờ đỏ sao vàng được kéo lên đỉnh cột cờ Huế ngày 21/8 thay cho cờ quẻ ly. Người chiến sĩ được đồng chí Trần Hữu Dực trực tiếp giao nhiệm vụ quan trọng ấy là chàng thanh niên 25 tuổi Đặng Văn Việt (ĐVV).
NGUYỄN QUANG HÀTạp chí văn nghệ của 6 tỉnh Bắc miền Trung gồm: Xứ Thanh, Sông Lam, Hồng Lĩnh, Nhật Lệ, Cửa Việt, Sông Hương có một cam kết thú vị, luôn luôn trong nỗi chờ mong là mỗi năm anh chị em trong tạp chí thay nhau đăng cai luân phiên, mỗi năm gặp nhau một lần, ở thời điểm thích hợp nhất do tạp chí đăng cai tự chọn.
NGUYỄN THỊ ANH ĐÀOTháng bảy, nồng nàn hương lúa mới trên những ruộng lúc mới vừa mùa gặt tháng 5, mùi rơm rạ kéo tôi ra khỏi thế giới của những đường phố xênh xang, đầy bụi và chật người. Tôi leo lên một tầng gác và nhìn về hướng quê tôi, hình dung đủ thứ nhưng nhớ vẫn là khói lam chiều với dáng mẹ tôi gầy cong như đòn gánh.
VĨNH NGUYÊNPhải nói tôi có ý định dông một chuyến xe máy ra Bắc đã lâu mà chưa có dịp. Nay có điều kiện để đi song tôi vẫn băn khoăn, không hiểu chuyến đi này mình sẽ gặp những ai đây? Hay là phải thở dài dọc đường xa với những cảnh đời khốn khó? Thôi thì tôi chỉ biết đi và đi.
VÕ MẠNH LẬP Ghi chépNhân vật Mười Hương nhiều người đã biết đến qua sách báo và đặc biệt là vùng đất Nam Bộ - Sài Gòn.
DƯƠNG THÀNH VŨTrong đêm mỏng yên tĩnh dịu dàng, một mình một cõi với ly rượu trắng, cùng mùi hương của hoa rộn ràng, huy hoàng phát tiết; tôi miên man nhớ tới cõi người đến- cõi người đi nơi xa chốn gần, thời gian tuyến tính lẫn thời gian phi tuyến tính.
NHẬT HOA KHANH Mười năm những mấy ngàn ngày... (Tố Hữu: Mười năm )
TRUNG SƠNĐoàn văn nghệ sĩ Thừa Thiên - Huế (TTH) lên đường “đi thực tế” một số tỉnh phía Bắc vào lúc lễ giỗ Tổ ở đền Hùng (10 tháng 3 âm lịch) vừa kết thúc. Tiền có hạn, thời gian có hạn chưa biết sẽ tới được những đâu, nhưng ai cũng “nhất trí” là phải lên Phú Thọ thăm Đền Hùng, dù lễ hội đã qua.
ALẾCHXĂNG GRINTại Luân Đôn, mùa xuân năm 1921, có hai ngài trung niên ăn mặc sang trọng dừng chân ở góc đường, nơi phố Pakađilli giao nhau với một ngõ nhỏ. Họ vừa ở một tiệm ăn đắt tiền đi ra. Ở đó, họ đã ăn tối, uống rượu vang và cùng đám nghệ sỹ của nhà hát Đriuđilenxky đùa cợt.
PHONG LÊQuê tôi là một xã nghèo ven chân núi Mồng Gà, huyện Hương Sơn, tỉnh Hà Tĩnh. Từ Hà Nội, việc về thăm quê, đối với tôi không mấy khó khăn. Hồi là sinh viên thì mỗi năm hai lần, lần nghỉ hè lần nghỉ Tết. Khi đã là cán bộ, có gia đình thì mỗi năm một lần, cả nhà dắt díu về, với hai hành trình là tàu hoả từ Hà Nội vào Vinh, rồi là xe đạp từ Vinh về nhà.
NGUYỄN TRỌNG HUẤNBạn tôi là nhà thơ. Thơ ông hay, nổi tiếng, nhiều người ái mộ. Thời buổi “nhuận bút không đùa với khách thơ”, kinh tế khó khăn, gia đình ông vẻ như cũng “rất ư hoàn cảnh”.
ĐẶNG NHẬT MINHGia đình tôi ở Huế có một cái lệ: cứ vào dịp trước Tết tất cả nhà cùng nhau lên núi Ngự Bình quét dọn, làm sạch cỏ trên những nấm mộ của nhũng người thân đã khuất. Sau đó trở về nhà thờ của dòng họ, cùng nhau ăn một bữa cơm chay. Cái lệ đó người Huế gọi là Chạp. Ngày Chạp hàng năm không cố định, có thể xê dịch nhưng nhất thiết phải trước Tết và con cháu trong gia đình dù đi đâu ở đâu cũng phải về để Chạp mộ.
DƯƠNG PHƯỚC THUMùa xuân năm Đinh Mùi, 1307, tức là chỉ sau có mấy tháng kể từ ngày Công chúa Huyền Trân xuất giá qua xứ Chàm làm dâu, thì những cư dân Đại Việt đầu tiên gồm cả quan binh gia quyến của họ, đã rời khỏi vùng châu thổ sông Hồng, sông Mã theo chân Hành khiển Đoàn Nhữ Hài, vượt qua ngàn dặm rừng rậm, núi cao, biển rộng đến đây cắm cây nêu trấn yểm, xác lập chủ quyền quốc gia.
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhững ngọn gió heo may cuối cùng đã tắt. Nắng buổi sáng hanh vàng ngoài bến sông. Hàng cây trên phố Huế đã chừng như thay lá, lung linh một màu lá tơ non, mỏng như hơi thở của bầy con gái trường Hai Bà Trưng đang guồng xe đạp đến trường. Mùa xuân đã về bên kia sông. Đã về những cánh én nâu đen có đôi mắt lay láy màu than đá. Đã về những đóa hoa hoàng mai, vàng rưng rức như một lời chào ngày tao ngộ...
TÔ VĨNH HÀCon chó Giắc nhà tôi đẹp nhưng mà hư quá. Tôi hét nó nằm thì nó cứ giương mắt ra, rồi ngồi. Tôi không cho nó chạy vào nhà vì sợ nó làm bẩn cái nền nhà vừa lau thì nó đi vòng cửa sau, khi tôi ra cửa trước. Bực nhất là ngày lễ - nói chung là những ngày có việc, bất cứ ai vào nó cũng sủa rộn ràng. Tôi thì không muốn xóm giềng để ý. Vậy mà chó có biết cho tôi đâu...
PHẠM NGUYÊN TƯỜNGGhi chép 1.Tôi tự đặt ra một “hạng mục” đinh cho chuyến đi thực tế sáng tác ở A Lưới lần này, và hạ quyết tâm thực hiện bằng được, đó là: phải lên được Đồi Thịt Băm!
LGT: Liên Thục Hương là một nhà văn Trung Quốc đương đại, tự ví mình là con mèo đêm co mình nằm trên nóc nhà, nhìn cuộc sống thành phố tấp nập đi qua đáy mắt. Liên Thục Hương còn ký bút danh Liên Gián, có số lượng bản thảo lên tới hơn hai triệu chữ. Năm 2003, “Bài bút ký đầy nước mắt” đã được post lên mạng và năm 2004 nó đã được dựng thành phim và bộ phim ngắn này làm tiền đề cho tác phẩm điện ảnh đoạt giải thưởng của Trung Quốc. Sông Hương xin giới thiệu câu chuyện này qua bản dịch của nữ nhà văn Trang Hạ.