Khoa và dưới bóng cây vạn tuế

10:31 09/10/2008
HẢI TRUNGKhoa tuyên bố với tôi: mình viết truyện ngắn đây, không phải để thành nhà gì cả, cốt để cho mấy đứa con làm gương mà học tập. Tôi ngờ ngợ, cứ nghĩ là anh nói vui vì chơi với đám bạn văn chương mà bốc đồng buột miệng. Ai ngờ anh viết thật, viết say sưa, viết để quên và để nhớ.

Rời khỏi làng quê Trang Liệt (Bắc Ninh), anh lững thững đến Huế trong tư cách là một “nhà thầu”, chuyên tu bổ các kiến trúc truyền thống, một số công trình di tích nhỏ ở Huế có sự góp sức tu bổ của anh. Nhưng đột nhiên, anh bỏ hẳn, thiếu thầy, thiếu thợ, thiếu nhiều thứ khác, anh lặng lẽ rút lui. Và hôm nay, bất ngờ anh gọi điện mời tôi đến “chứng giám” Dưới bóng cây vạn tuế mà anh vừa xuất bản (Tập truyện ngắn của Ngô Hữu Khoa, Nxb. Hội Nhà Văn, 2007).
Tôi cầm trên tay tập truyện ngắn đầu tay của Khoa mà không khỏi ngỡ ngàng. Trước đây, anh từng đưa tôi đọc giúp 2 truyện ngắn, và cả hai đều đã in, một ở Sông Hương (số tháng 3-2007), một ở Thừa Thiên Huế số Tết Đinh Hợi. Nay lại được tập hợp cùng với 11 truyện khác để in thành Dưới bóng cây vạn tuế.
Quả tình, Khoa không có ý văn chương để làm gì, như đã nói trên, anh cầm bút với một ý nghĩa khác. Và do vậy, ta không gặp trong những câu chuyện của anh một “sự cố tình chuyên nghiệp nào”, tự nhiên như những gì anh nghĩ. Anh neo những cảm xúc rất chân thành của mình theo từng số phận nhân vật của mình. Ta không gặp ở anh một hệ thống thi pháp ổn định, không có một phong cách ngôn ngữ được xác lập, mà cứ nghe anh ư ử kể về cuộc đời, kể về những thân phận mà đâu đó chợt gặp trong cuộc sống ngày thường.

Từng số phận được lẩy ra từ cuộc sống để vào từng trang sách.
Một người phụ nữ quý phái xô dạt theo cơ chế để mưu sinh rồi từng bước thành đạt. Một người chồng cam chịu, chấp nhận một cuộc sống phẳng lặng vì bát cơm manh áo, vì một tương lai tốt đẹp. Bỏ lại sau lưng những tất tưởi thường nhật, họ về tổ ấm để nghe hạnh phúc của mình bập bềnh theo thời gian (Như cánh lục bình). Rồi hạnh phúc của họ có như cánh lục bình kia, dập dềnh cùng con nước, ra đi và tìm bến mới? Ẩn dụ đó khiến người ta nghĩ nhiều về hạnh phúc, về mái ấm trong ngày mới.
Hai người bạn. Một là kẻ cắp với nghĩa đen. Một là kẻ cắp với nghĩa “trịch thượng” là đục khoét. Thân nhau từ hồi bé. Kẻ cắp “trịch thượng” đang sống và về làng dự đám tang của kẻ cắp “nghĩa đen” kia. Những giấc ác mộng ban ngày vây hãm. Những đối thoại triết lý về cuộc sống, về bản chất của trộm cắp của hai người bạn đã dựng nên một bức chân dung có tính xã hội. Đồng hành với trộm cắp, nhưng một kẻ lại bị xã hội khinh khi, kẻ kia lại được đánh bóng trong chức vị nên vẫn yên tâm giấu mặt trong hào quang. Cuộc đối thoại với người chết, với lương tâm đã đưa kẻ cắp “trịch thượng” vào những cơn bấn loạn của tâm thần: “Tao biết tối qua mày có ý định công đức cho chùa làng. Xưa rồi mày ạ. Có lần tao ăn trộm được cũng khá, cũng có ý định dành phần lớn mang đi chùa cúng lễ và công đức, nhưng lại nghĩ của ăn trộm là của phi nghĩa, nên thôi”. Liệu đó có phải là sự thức nhận từ lương tâm của kẻ kia, cái kẻ hào nhoáng ở đời?

Cũng vẫn là đề tài về con người trong vòng quay mưu sinh, ở truyện Dưới bóng cây vạn tuế, nhân vật nữ xuất hiện với motif khá quen thuộc. Chồng là cán bộ, người mẫn cán, không kiếm được nhiều tiền, không chức vụ, vợ chút ít nhan sắc, chui vào các mối quan hệ, chồng được cất nhắc, bi kịch diễn ra, người chồng chấp nhận thân phận, nô bộc đồng tiền. Phấp phới với giàu sang nhưng hạnh phúc gia đình lại thăm thẳm trong sương khói.
Con người và xã hội hàng hóa là tất cả những gì Khoa quan tâm. Những số phận trong các truyện Con tốt sang sông, Căn nhà của mẹ, Lóng lánh mồ hôi, Tiếng mõ, Vẫn chỉ là buổi sáng, Phế liệu… đều được lẩy ra từ hiện thực, từ bản chất của cuộc sống ngày thường.
Đọc truyện của Khoa, người đọc nhìn quanh và chợt thấy nhân vật của anh rất hiện thực. Xung quanh, lúc xa xôi khi gần gụi; lúc rõ nét khi nhập nhòa. Do vậy, mà nó có thể cuốn người đọc. Cốt truyện rất bình thường, thậm chí có truyện với motif đã quá quen, nhưng bằng một giọng kể hồn nhiên, chân thật, anh lôi người đọc vào truyện. Anh thành công trong vai là người kể, thành công ở chính sự hồn nhiên chữ nghĩa của mình. Trong lời giới thiệu, nhà văn Trần Ninh Hồ nhận xét: “Cả 13 truyện đều có những tình huống sống rất cụ thể, chứng tỏ người viết chịu quan sát và biết chọn lựa cái đáng viết từ cuộc sống thật và bề bộn này. Đời sống của những gia đình nghèo đang tìm mọi cách để tồn tại, nhiều khi thật đau đớn. Tác giả không tránh né cả những mưu mẹo đen tối nào đó do những xô đẩy cuộc đời khiến người ta không tránh khỏi. Tuy vậy, bút pháp chưa đặc sắc trong tình hình cần cách tân hiện nay ở thể loại truyện ngắn. Tính cách nhân vật chưa mạnh, chưa tạo được giọng văn riêng. Nhưng vì có những cảm xúc thật và cái tình thật của người viết nên các truyện đều đứng được, in được cả (…)”.

Người viết bài này hoàn toàn tán đồng với nhận xét trên của nhà văn Trần Ninh Hồ. Duy chỉ một điều, nhà văn có viết: chưa tạo được giọng văn riêng, thì quả thật khó lắm. Không thể đòi hỏi hơn ở Khoa một cái gì đó quá sức, Khoa viết truyện ngắn với cái tình và cái chủ đích như đã đề cập, không hướng đến nghiệp dĩ. Lại nữa, nếu mà Khoa đã tạo được giọng văn riêng, thì chẳng có gì để nói nữa cả. Bao nhiêu nhà văn hội này hội nọ, một đời với nghiệp mà vẫn còn ước mơ tạo được giọng văn riêng đó thôi, mấy lời xin thưa lại, để cùng đánh giá đúng về bản chất của văn chương vậy. Và tôi lại thấy ở Khoa một con người lao động, bất luận về bản chất để làm gì, cũng để tôi học tập ở anh về công việc lao động cần cù trên những luống chữ…
Tôi không cầu mong anh trở thành nhà văn, chỉ cầu mong, những trang viết của Khoa sẽ dần chín theo thời gian. Hiện vốn của anh vẫn còn hơn mươi truyện, và lần này anh quan tâm đến mảng kinh tế xã hội. Chúc cho anh mãi trong sáng với con chữ của mình.
H.T

(nguồn: TCSH số 223 - 09 - 2007)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN HUYỀN SÂM Một mùa đông ở Stockholm của Agneta Pleijel là một hiện tượng nghệ thuật độc đáo, tiêu biểu cho tính chất “đả phá thể loại” của tiểu thuyết hiện nay. Tác phẩm dung nạp nhiều đặc tính của tiểu thuyết Châu Âu hậu hiện đại: Phép giản lược tối thiểu, lối kể chuyện tung hứng, thủ pháp lạ hoá hình thức văn bản tác phẩm, đặc biệt là kiểu tự thuật “đánh tráo” chủ thể trần thuật.

  • HỒ THẾ HÀSerenade của Peter Kihlgard là một truyện ngắn có cấu trúc hiện đại. Trước hết là ở nghệ thuật ngôn từ và điểm nhìn văn bản.

  • BỬU NAM Hình thức lạ lùng gây tò mòTrước hết về mặt hình thức, tiểu thuyết khêu gợi sự tò mò ở người đọc với cách bố trí các tiêu đề in hoa, dày đặc đến hàng trăm suốt tác phẩm, xen lẫn các tiêu đề bằng tiếng Anh “I have been calling for more than an hour... But It's me”...

  • NHỤY NGUYÊN

    Sự đặc biệt của dòng thơ hậu chiến là luôn luôn khuấy động trong cái mênh mông vô chừng tưởng đã lắng xuống những vỉa quặng lấp lánh sau 30 năm đằng đẵng.

  • PHẠM QUÝ VINH Sau khi lên nắm chính quyền ở miền Nam Việt Nam, Ngô Đình Diệm đã thi hành một chính sách đối nội hết sức phản động. Chính quyền Ngô Đình Diệm đã sử dụng nhiều thủ đoạn nham hiểm nhằm khủng bố những người kháng chiến, những người yêu nước.

  • VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.

  • MAI VĂN HOAN     Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.

  • HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).

  • ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.

  • NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.

  • HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.

  • LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.

  • HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.

  • HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.

  • LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.

  • VĂN CẦM HẢI       (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".

  • TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.

  • NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.