Khi ông chủ ngân hàng cưới... nàng thơ

11:07 09/02/2009
THÁI DOÃN HIỂUGiữa ngổn ngang những dữ kiện, con số, tiền nong, ngành Ngân hàng Việt vẫn hào hiệp tặng cho thi đàn ra một hồn thơ tinh tế: Nguyễn Ngọc Oánh.Trong thi sĩ Nguyễn Ngọc Oánh có hai con người: một trẻ và một già!

Đây là chàng trẻ Oánh:
Nguyễn Ngọc Oánh yêu và anh rất dại dột cất công đi tìm bề sâu để khám phá bản chất của nó. Nhưng anh hiểu làm sao được chiều sâu thẳm của tình yêu (?) hệt như nhà vật lý Đức Risa Hanxơ khi ông này giảng giải cho sinh viên: “Vấn đề tuổi của trái đất quá ư phức tạp. Nó cũng khó hiểu như trái tim cô gái. Ta đứng trên mặt đất nhưng không biết thật chính xác về tuổi của nó, cũng như ta tiếp xúc thường xuyên với các cô gái, nhưng đố ai hiểu rõ họ nghĩ gì về ta”. Rốt cuộc, nhà thơ chỉ tìm được cái bâng quơ “ngẩn ngơ đi tìm”, để rồi “bước hẫng lên tiếng cười”. Tâm trạng chông chênh này của Nguyễn Ngọc Oánh là trạng huống mất cân bằng của tuổi xuân, khát yêu, nhưng không thể vượt rào vì những tín điều đạo đức của người có nhân cách.
                        Ai làm cho đất lên mây
                        Để mây hôn đất đắm say giữa trời
                        Tôi - nàng cách một tiếng cười
                        Mà sao bạc mái tóc rồi vẫn xa
                                                            (Viết dưới chân Hoàng Liên Sơn)
Thực chất, tình yêu trong thơ Nguyễn Ngọc Oánh chỉ là một thứ tình bạn được nâng cấp lên mức cao sống động bởi sự chia biệt giới tính. Trước bạn đọc, nhà thơ đã phải thật thà cởi mở thanh minh rạch ròi:
                        Tôi - nàng nửa bạn, nửa yêu
                        Nửa mưa, nửa nắng, nửa chiều, nửa mai
                        Nửa đêm chợt tỉnh giấc dài
                        Quờ tay chạm ánh trăng ngoài chấn song.
                                                                        (Nửa)

Chính thứ thơ ca - mặt trời của cuộc sống này đã đem đến cho thi phẩm của Nguyễn Ngọc Oánh những bài thơ tình hay cả tứ lẫn lời.
Thơ Nguyễn Ngọc Oánh đã giúp ta khám phá sâu hơn bản chất phái đẹp. Theo anh, phụ nữ là một nửa bầu trời cấu tạo nên nửa trái đất. Họ không bao giờ khờ khạo. Họ sinh ra ở độ tuổi mấy nghìn năm trước công nguyên. Phụ nữ rõ ràng thông minh hơn nam giới vì họ biết ít hơn nhưng hiểu nhiều hơn. Các nàng thường hay lập lờ đưa vào tình bạn cái mà họ mượn tạm ở tình yêu. Trong yêu đương, biết 100 người phụ nữ thì vẫn không hiểu được ai sâu, nhưng nếu biết thật cặn kẽ một phun nữ thì sẽ hiểu được cả trăm người. Ở người phụ nữ, nhan sắc quan trọng hơn trí thông minh, bởi cánh đàn ông ưa nhìn hơn là thích suy nghĩ. Còn các quý bà thì rất thích được khen tặng dẫu nhan sắc không được mặn mòi cho lắm, vì vậy các nàng hay bị đàn ông tìm mọi cách làm hại.

Ở đời, có ba thứ làm lòng người mát dịu hẳn lại, quên hết mọi tục lụy phiền toái là: nước, hoa và sắc đẹp phụ nữ. Dường như nơi nào có người đẹp thì nơi đó có tiếng thở dài của đàn ông. Nguyễn Ngọc Oánh thuộc dạng người thích phiêu lưu tình ái. Trong trời đất không có thứ gì phiêu lưu nguy hiểm cho bằng yêu đương. Anh thích thú say mê mạo hiểm dấn thân vào lãnh địa này. Nguyễn Ngọc Oánh giấu gì cũng được trừ khi yêu. Anh thích biểu dương, làm dáng trước mỹ nhân và âm thầm sẵn sàng chịu thua thiệt trong bóng tối. Khi thần yêu xâm chiếm, ngọn đèn tình của thi sĩ chỉ còn cháy sáng một bên y như thể không yêu là không còn được sống “cuộc đời anh khởi sự tự em đây” (Aragông). Nguyễn Ngọc Oánh đã để lại trong thơ một trạng huống chống chếnh say của một bên. Cách tạo tứ quả là duyên dáng tội nghiệp. Phạm Tiến Duật có lý khi anh gọi Nguyễn Ngọc Oánh là người làm thơ “cả nghĩ”, Bằng Việt trầm trồ “Tài hoa và phóng túng”. Tôi thêm: “đa tình” nữa! Nguyễn Ngọc Oánh thuộc nòi tình. Cặp mắt thi sĩ của anh hễ liếc vào chỗ nào thì chỗ đó lung linh lên, chới với.

Người nào không có được một ý trung nhân để mà say thì bất cứ ở đâu người đó vẫn là kẻ cô độc vật vờ như cái bóng dẫu sống chen vai thích cánh giữa mọi người. Không được yêu thời trai trẻ, không được thỏa mãn chí tang bồng thời oanh liệt, Nguyễn Ngọc Oánh yêu bù bằng cách đi tìm người đẹp để yêu - yêu trong mộng tưởng. Đố ai cấm được nào!
Cuộc đời là bông hoa, tình yêu là mật hoa. Thiếu ăn thể xác ốm o, thiếu yêu linh hồn cũng rã rời vật vã. Người Pháp bảo: ”Thiếu yêu như thiếu nắng”. Cuộc sống thiếu tình yêu thì không thể gọi là sống mà chỉ là tồn tại. Đây là những giây phút ngất ngây thần tiên nơi trần thế của danh sĩ với giai nhân. Chính tuổi già không thể gìn giữ Nguyễn Ngọc Oánh thoát khỏi vòng ái ân nhưng tình yêu đã bảo vệ thắp lửa cho thi nhân thoát ra khỏi tuổi già. Tình yêu quả là không có giới hạn, chừng nào trái tim Nguyễn Ngọc Oánh còn đập thì anh còn yêu. Nó chứa vẻ đẹp thanh cao, trong sáng, sang trọng mang lý tưởng thẩm mỹ kỳ lạ lung linh như bảy sắc cầu vồng ảo giác. Khi yêu thật sự người ta mới thực sự được sống làm người. Càng tiến sâu vào tình yêu, linh hồn con người càng trở nên bất tử.
           
Và, còn đây là ông lão Oánh:
                        Tháng năm xanh ai đốt
                        Tàn tro bay trắng đầu
                        Về quê thăm bạn cũ
                        Mây bồng bềnh mắt nhau
                                                            (Thăm bạn)

Thăm bạn là một bài tứ tuyệt già giặn. Nhà thơ có tài lấy một sợi tóc từ xanh hóa bạc mà gói được cái ngắn ngủi phù du bi thương của cả một kiếp người!
Hai ông bạn cố trí thuở chăn trâu cắt cỏ, đặt lờ thả ống trúm ngày đi tóc hãy còn xanh, sau bao năm xa cách nổi chìm, giờ gặp lại nhau nơi cố hương trong cảnh quan dân lệ cách, mái đầu bạc xát mái đầu bạc, tóc hai người bạn đã như mây trắng xóa soi vào mắt nhau bồng bềnh, rưng rưng, cảm thương dâu bể đến nghẹn lời! Tứ thơ hợp mà mở, kiệm lời và vang, mộc mà sâu thẳm.
                        Về quê thăm bạn cũ
                        Mây bồng bềnh mắt nhau.
Xao động bâng khuâng trước lẽ biến dịch của trời đất và kiếp người, bài thơ đã đánh thức dậy bao kỷ niệm tươi nguyên ấm nồng trong thời niên thiếu xa vời yêu dấu tận làng quê. Mái tóc bạc quả là một chứng tích sống động, là “vòng hoa danh dự”(Kinh Thánh), là văn khố hùng hồn của quá khứ.

Đã từng đi công cán khắp năm châu bốn biển, sành sỏi với đời, Nguyễn Ngọc Oánh đã đúc rút được khá nhiều những châm ngôn lịch lãm bằng thơ: “Nước mắt tuôn trong veo- Hỏi rằng nguồn có sạch?;”Sao nỡ đập vỡ kính- Để nhận về muôn gươm!”;”Dẫu là đỡ kịp hoa rơi-Thì làn hương vẫn chơi vơi cuối cành”; ”Hoa rơi trên đất vẫn hoa - Hoa thơm lạc tận xó nhà vẫn thơm”; “Núi cao không phải nhiều lời - Nụ cười chẳng phải phiên dịch”; “Người qua biên giới trình hộ chiếu - Gió qua biên giới mây chào mời”; “Số trúng - người đời nâng niu / Vé trật - hẩm hiu trắng hè” (Giao cảm không màu); “Đầu nguồn nước mặn tiếng chim - Cuối sông nước mặn nỗi niềm phù sa” (Tản mạn nước)... Không phải cho là mất, chính cho là được. Trí tuệ giàu lên nhờ cái nó nhận vào, con tim giàu lên nhờ cái nó cho đi, Nguyễn Ngọc Oánh đã thấm nhuần được giáo lý của nhà Phật:
                        Trước bàn tay ngửa ra
                        Thấy mình thêm nghèo khó
                        Trao món tiền nho nhỏ
                        Thấy mình vừa giàu thêm

(Trước bàn tay)

Anh lấy lời một nạn nhân chiến tranh, tố cáo chiến tranh hủy diệt bằng chất độc màu da cam “Tru di tam tộc - ba lần chém / Đầu độc một đời - giết nối đời” (Kể làm chi). Anh cảm hiểu đời sống và tâm trạng lá rụng về cội của người xa xứ “Ông cõng bà, dẫu là nắm tro, mà dường rất nặng - đôi mắt đục mờ dõi cuối trời xa” (Nơi xa xứ) rước nắm tro vợ về cố hương để được nằm cạnh bên mẹ cha.  Anh suy nghĩ sâu về thân phận con người trong chiến tranh trước bức tường lính Mỹ chết trận ở Việt Nam trên đất Hoa Kỳ. Anh để mắt bận lòng đến những em nhỏ bới rác “Phận người như lá đài bi - Mưa tơi tả dập cớ chi còn vùi”...

Nguyễn Ngọc Oánh viết về cha và mẹ mình với nhiều ân tình ruột thịt. Cha anh là một ngư dân “Lọt lòng đã lấm cát - Tiếng sóng thay lời ru - Biết bơi trước biết đứng - Tanh nồng những giấc mơ” (Cha và biển), người cha mà đời sống lam lũ đến mức “Nụ cười luôn đi vắng - Nhọc nhằn tới buông neo” (Cha và biển). Mẹ anh là một người phụ nữ Việt hiền đức, đảm đang, trung hậu. Ngày mẹ mất, tiễn mẹ ra đồng an nghỉ, Nguyễn Ngọc Oánh thấm thía tổng kết cuộc đời cơ cực lam lũ của Người Mẹ trong những nét phổ quát khắc chạm:
                        Con nhìn vào đâu cũng hình bóng mẹ
                        Liêu xiêu gánh rạ lội ngược cơn giông
                        Tất bật gánh củi lún cả chiều đông
                        Đời mẹ như đòn gánh không mấu
                        Vận rủi đeo bám, rơi tuột vận may
                        Một đời bán lưng bới tìm hạt gạo
                        Một đời trốn hoài vẫn trong cơn mưa
                        Áo mới một đời vẫn là áo cưới
                        Tên gọi một đời vẫn là tên con
                                                            (Gió đưa cây cải về trời...)
Trong đời làm thơ, anh viết cho mẹ sáu bài. Bài nào cũng hay, mỗi bài mỗi vẻ, tỏ rõ anh là con người hiếu đễ luôn yêu kính đấng sinh thành.
Nguyễn Ngọc Oánh dành cho người vợ tao khang của mình những lời lúa khoai mộc mạc đậm đà nghĩa tình:
                        Vết nhăn trên trán rạn nhiều
                        Là bao vất vả sớm chiều trên nương
                        Chân chim đuôi mắt mờ sương
                        Là khi con ốm chiếu giường rỗng tênh
                        Vết hằn khóe miệng nổi nênh
                        Là khi gạo củi một mình kiếm mua
                        Hay hờn hay giận hay đùa
                        Là ngần ấy vị ngọt chua đã từng
                                                            (Mặn muối gừng cay)
...

Thơ Nguyễn Ngọc Oánh nhìn chung qua các tập là thứ thơ đều đều monoton, không có điệp khúc cao trào. Hãy coi chừng: đi trên đại lộ dài hun hút mà hai bên đường phố xá, nhà cửa chỉ đúc toàn một kiểu thì còn gì chán mắt bằng. Những biến tấu riêng cho mỗi bài sẽ giúp anh khắc phục được sự đơn điệu khi sử dụng thể lục bát, thơ năm chữ, bảy chữ truyền thống, kể cả chủ đề tình yêu quá quen thuộc với tác giả để có được cái riêng khó lẫn thơ người.

Ngân hàng là nghề, thơ là nghiệp. Nguyễn Ngọc Oánh là người thăng tiến, hanh thông, đạt vận cả nghề lẫn nghiệp. Nghề để nuôi thân, nghiệp để nuôi hồn. Đã mắc vào nghiệp dĩ này rồi, anh là người có thực tài thơ. Thật kỳ diệu là nhà kinh tế học này - người đã góp phần giữ cho đồng tiền khỏi mất giá lại có thể đi đến đâu là hòa lòng mình với vạn vật, trẻ thơ và già giặn trong thi ca đến thế.
Nguyễn Ngọc Oánh đã tự bạch: “Tôi làm nghề ngân hàng, một nghề đòi hỏi phải nhạy cảm, dám quyết đoán và giàu mơ ước... điều này gần với thơ. Hàng ngày sống với những con số, những tư duy chính xác, có bản lĩnh trong quản lý và kinh doanh, càng gần đến thơ... Thơ như của nhặt được, nhiều khi tự dưng mà có. Nàng thơ kiêu sa thường đến lúc nghỉ ngơi. Vì thế, dù có bận đến đâu tôi vẫn có thể sống với nàng, miễn là vẫn rung động vì nàng:
                        Việc công không láng cháng
                        Tản mạn chút mộng mơ
                        Bạc tiền như gió thoảng
                        Còn lại một túi thơ

Người xưa đặt vấn đề khá nặng về chức năng của thơ ca: Trang Tử viết “Thi dĩ đạo chí” (Thơ lấy đạo để nói lên ý chí); Tuân Tử phán: “Thi ngôn dĩ kỳ chí dã” (Thơ để nói chí mình) dĩ nhiên rồi, nhưng khi Bạch Cư Dị truyền dạy: “Thơ bổ sát thời chính” (Thơ giúp xem xét việc chính sự); Trần Tử Ngang còn thêm “Thi dĩ bổ quốc” (Thơ lấy nghĩa giúp nước) thì điều đó mới thật là trọng đại. Thơ của Nguyễn Ngọc Oánh là thứ thơ “Nhặt được của một cõi lòng biết hát và biết đau”. Thi pháp của anh đã chín, vững vàng. Điều đáng lưu ý là Nguyễn Ngọc Oánh đã và đang cho thơ bắt rễ sâu vào thực thể xã hội để hút lấy tinh chất của Đời. Muốn làm một nhà thơ lớn hay bé còn tùy thuộc căn bản ở vấn đề xã hội mà nhà thơ phản ánh lớn hay bé. Các nhà thơ không nên chỉ chăm chút tỉa tót cho gương mặt mình thật mỹ miều mà lờ đi những vấn đề nóng bỏng, then chốt của thời cuộc. Công chúng bạn đọc sẽ quay lưng lại với thơ chừng nào thơ không quan tâm đến số phận của nhân dân và đất nước. Trần Nhuận Minh với tập thơ Nhà thơ và hoa cỏ đã tái bản đến lần thứ 12 là tấm gương tiêu biểu đi tiên phong về ý tưởng này.

Thơ - với Nguyễn Ngọc Oánh tất cả đang phía trước. Anh hãy vững tin vào điều đó. Hơn mười bốn năm qua, chúng tôi đã mở lòng ra đón đọc từng bài một của người đăng tải trên các báo, cùng 6 tập thơ chính đã xuất bản với một cảm tình nồng thắm.
Chúng tôi không chúc anh Oánh làm được nhiều thơ, in ít vậy thôi, nhưng là thứ trầm tích. Cứ theo hướng ấy, anh có thể ngồi vững giữa chiếu thơ.
T.D.H

(nguồn: TCSH số 192 - 02 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Tóm tắt: Nhà báo – nhà văn Dương Thị Xuân Quý  sinh ngày 19 tháng 4 năm 1941, hy sinh ngày 8 tháng 3 năm 1969.  Bà nguyên là phóng viên báo Phụ nữ Việt Nam từ năm 1961 đến năm 1968.

  • PHAN NGỌC

    Giàu (,) ba bữa, khó (,) hai niêu,
    Yên phận (,) thì hơn hết mọi điều
    Khát, uống chè mai: hơi (,) ngọt ngọt;
    Sốt, kề hiên nguyệt: gió (,) hiu hiu.
    Giang sơn tám bức, là tranh vẽ;
    Phong cảnh tứ mùa, ấy gấm thêu
    Thong thả: hôm (,) khuya nằm, sớm thức,
    Muôn vàn đã đội đức trời Nghiêu.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN

    (Nhân đọc mấy truyện lịch sử của Nguyễn Huy Thiệp)

  • LGT: Cuộc thi viết cảm nhận tác phẩm văn học Hàn Quốc (lần thứ IX - năm 2014) do Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh và Viện Dịch thuật văn học Hàn Quốc tổ chức. Cô sinh viên năm thứ tư Hồ Tiểu Ngọc được khoa Ngữ văn, trường Đại học khoa học, Đại học Huế cử tham gia, đã vinh dự nhận giải Nhì qua bài phê bình tập truyện ngắn Điều gì xảy ra, ai biết… của nhà văn Hàn Quốc Kim Young Ha, dịch giả Hiền Nguyễn.
    BBT Sông Hương vui mừng giới thiệu đến bạn đọc bài viết đạt giải cao này.

  • (Cuộc trưng cầu ý kiến các giảng viên dạy lý luận và lịch sử văn học ở các trường ĐHTH ở Liên Xô)

  • ĐỖ LAI THÚY

    Ngồi buồn lại trách ông xanh
    Khi vui muốn khóc, buồn tênh lại cười
    Kiếp sau xin chớ làm người
    Làm cây thông đứng giữa trời mà reo

                             (Nguyễn Công Trứ)

  • NGUYỄN KHẮC THẠCH

    Không biết ngẫu nhiên hay cố ý mà tập thơ sẽ in riêng của nhà thơ Trần Lan Vinh lại mang tên với chữ đầu là Lục (sáu) – Lục bát đồng dao? Thôi thì cứ nói theo khẩu ngữ nhà Phật là tùy duyên nhưng điều quan trọng lại không phải ở phần cứng đó mà ở phần mềm hoặc không ở chỗ thể mà ở chỗ dụng của danh xưng.

  • LTS: Thời gian qua, thơ Tân hình thức Việt đã bắt đầu được nhiều bạn đọc, bạn thơ quan tâm. Tuy nhiên, nhiều người vẫn băn khoăn về việc làm sao để đọc một bài thơ Tân hình thức? Làm sao để giữ nhịp điệu của thơ?... Bài viết dưới đây của Biển Bắc, nhằm giới thiệu cách đọc-diễn một bài thơ Tân hình thức Việt. Vì muốn làm sáng ý nguyện ngôn ngữ đời thường nên bài viết sử dụng ngôn ngữ rất THT Việt. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.

  • ĐẶNG TIẾN

    Xuân đã đem mong nhớ trở về
    Lòng cô gái ở bến sông kia
    Cô hồi tưởng lại ba xuân trước
    Trên bến cùng ai đã nặng thề…

                          (Nguyễn Bính)

  • DÂN TRÍ

    Không học chữ Nho, nghe qua hai câu thơ Hán Việt vừa dẫn thì cũng có thể hiểu được nghĩa lý một cách mang mang hồn sử thi.

  • HUỲNH NHƯ PHƯƠNG

    Khi mới học cấp 2, tôi đã thấy trong tủ sách nhà tôi có hai cuốn Nhà văn hiện đại của Vũ Ngọc Phan và Thi nhân Việt Nam của Hoài Thanh, Hoài Chân do một người dượng mua về từ Sài Gòn.

  • THÁI KIM LAN

    Bài viết này chỉ là một phác thảo gợi ý về sự nghiệp và ảnh hưởng của hai nhà nữ trí thức miền Nam trong những thập niên 60, 70. Phùng Thăng tạ thế cuối thập niên 70. Phùng Khánh đã là Ni sư giữa thập niên 60 và trở nên một Ni sư Trưởng lỗi lạc trong Giáo hội Phật giáo Việt Nam trước và sau 1975, liễu sinh 2003.

  • YẾN THANH

    “Vĩnh biệt mày, cái thằng không biết tưởng tượng. Mày tự mà đốt đuốc cho cuộc hành trình thăm thẳm của mày đi”

  • ĐỖ LAI THÚY

    Trong một vài năm gần đây, nhiều nhà phê bình và nghiên cứu văn học đã có những cố gắng đáng kể để thoát ra khỏi tình trạng tiếp cận văn học một cách xã hội học có phần dung tục, hướng đến cách tiếp cận mới xuất phát từ đặc trưng của chính bản thân văn học. Một trong nhiều đường hướng nghiên cứu có triển vọng đó là phong cách học.

  • Cần phải nói ngay, Tưởng tượng & Dấu vết là cuốn tiểu thuyết khó đọc. Nó khó đọc vì hai lẽ: thứ nhất, nền tảng logic văn bản không nằm trong phương pháp tạo dựng hay trong tri thức thực hành của tác giả, mà nó nằm sâu trong yếu tính[2] thời gian.

  • ĐINH VĂN TUẤN

    Thi hào Nguyễn Du khi sáng tác “Truyện Kiều” đã đặt tên cho tác phẩm nổi tiếng này là gì? Cho đến nay, giới nghiên cứu Kiều vẫn còn phân vân, chưa dứt khoát hẳn một nhan đề nào là khởi đầu do cụ Nguyễn Du đặt.

  • KHẾ IÊM
    Tặng nhà thơ Biển Bắc và Hồ Đăng Thanh Ngọc

    Nhà thơ và nhà nghiên cứu Mỹ Timothy Steele, trong bài viết “Phép làm thơ cho những nhà thơ thế kỷ 21”, nhấn mạnh, cách làm thơ trong thế kỷ tới sẽ là tuôn nhịp điệu ngôn ngữ nói vào thể luật, để hình thành nhịp điệu thơ.

  • HOÀNG DŨNG, BỬU NAM

    (Phỏng vấn nhà sử học Nguyễn Hồng Phong, nhà văn Huy Phương và nhà phê bình văn học Phương Lựu)