Nhà biên khảo Thái Doãn Hiểu - Ảnh: Internet
Thơ Lê Quốc Hán là tiếng nói nhân danh một kiếp người trước đấng toàn năng, là mối giao tiếp vô hình của tâm linh với các thế lực siêu nhiên. Nhà thơ gồng mình gánh nặng nỗi mình nỗi đời. Lê Quốc Hán ý thức rất rõ con người chỉ là một hạt bụi nhỏ bé được Chúa Trời thổi vào đó ngọn lửa linh hồn, trở thành vật thể đầy trí lực và linh cảm để suốt đời lang thang kiếm kiếm tìm tìm trong cõi thiên hà bao la, tâm linh giao hòa với muôn loài và tiên cảm những gì sắp xẩy ra. Vua Xalômông phán: "Một cái nhỏ xíu nhất của thế giới đều chứa vô biên". Trước cái vô hạn của trời đất và cái mong manh hữu hạn của kiếp phù sinh, muốn tồn tại, con người cần phải nương vào một điểm tựa tinh thần nào đó? Vừa chợp mắt đã mơ gặp mình nghìn năm trước... Sẩy chân sa xuống vực gặp mình nghìn năm sau. (Giấc mơ) Ta thử xem "hai cái vô cùng tận" của Paxcan là vũ trụ và tâm linh chứa trong Lê Quốc Hán có những gì? Vũ trụ rộng lớn tùy theo sức tưởng tượng của ta khi ta mở rộng vô tận các phạm vi vũ trụ. Nó bát ngát trước cái yếu đuối của con người, nhưng lại nhỏ bé trong tầm tư duy của ta. Thực ra, vũ trụ là tâm ta, tâm ta là vũ trụ. Trong tịnh lữ, giữa tâm ta, vũ trụ tạo ra sự phán xét. Thịnh - suy, tròn - khuyết, mất - còn, hội tụ - phân ly, bại - thành, "hoa hồng và gai sắc/ mọc chung trên một cành"... Hai mặt đối lập như một nghịch lý bất di bất dịch tạo ra cuộc giao tranh không bao giờ chấm dứt giữa Địa Ngục và Thiên Đàng. Trong cõi mung lung thiên địa đó, Lê Quốc Hán tha thiết cất lời khấn nguyện mong tìm cho mình một lời giải đáp về một chốn nương thân yên ổn giữa bến vô cùng. Trong lúc ngửa mặt lên trời tìm kiến các vì sao, nhà toán học kiêm nhà thơ tài năng này đã nhìn xuống mặt đất quan tâm đến hết thảy mọi cái đang diễn ra dưới chân.
Thấm nhuần các giáo lý Thiên Chúa giáo, Lê Quốc Hán nhìn nhận con người và thế giới trong mối tổng hòa chằng chịt của nó, để vươn lên sống đẹp Đời tốt Đạo. Thơ anh đụng đến nhiều mảng đời thường, lý giải cuộc đời khá biện chứng nhưng lại đẫm sắc màu tôn giáo về kiếp người, về hạnh phúc, nỗi khổ đau, đặt vị trí con người trong vòng tay yêu thương, sống và để cho đồng loại cùng được sống. Lê Quốc Hán bời bời nhiều nỗi lo. Khi con người thông thương đường đến muôn nơi, lên được cả cung trăng, nhà thơ đau đáu: "Sao đường ở giữa thế gian / Người không mở được lối sang với người" (Đường). Con người sống khép kín lòng mình như những ốc đảo chơ vơ giữa đại dương. Ai đánh mất nơi Thiên đường chính là tự chuốc lấy niềm đau nơi Địa ngục. Trong cuộc "hành trình không biên giới", đâu chỉ "mòn tay giở Phúc Âm" là tìm ra được lời đáp cho cuộc sống. Cõi phù sinh chỉ là ảo giác, lênh đênh bèo dạt mây trôi, khiến thơ Hán nặng trĩu buồn. Anh không buồn vì sinh kế khó khăn hay những chuyện thế sự lặt vặt như nhiều người làm thơ khác, thơ Lê Quốc Hán chảy bỏng khát vọng về nguồn với tầm triết lý mang tín ngưỡng tôn giáo và khoa học sâu sắc. Nỗi sợ hãi trước cái chết quẫn bách tạo nên lời khấn nguyện linh thiêng. Vonter đã chỉ ra: "Khám phá chân lý và thực hành tốt điều đó là hai mục tiêu quan trọng của triết học". Xưa, triết gia chỉ mổ xẻ chứ không điều trị, bởi thế nó chỉ an ủi con người bằng các xác tín vô ích của nó. Nay, nhà triết học phải tìm cách cải tạo thế giới, phát giác bề chưa thấy, ở cái bề sâu, ở cái bề sau, ở cái bề xa như Chế Lan Viên thường bảo. Triết luận chính là một cách hoài nghi để tiếp cận với chân lý. Đứng trước cái bao la của vũ trụ, cái hạn hẹp của thời gian, cái mong manh của kiếp người, Lê Quốc Hán ưa triết lý. Kể ra, triết luận chẳng có gì khó, cái khó là làm sao đừng để những duy lý cũ chen ngang giữa ta và sự thật. Tiếp cận với triết học, con người sẽ trở nên vô thần, nhưng nếu thấm nhuần vào triết học nó sẽ dẫn ta đến với tôn giáo. Các tư tưởng không phải là vật trang sức, nó cần được phơi ra trước ánh sáng. Con người phải am tường hiểu rõ điểm mạnh, yếu của bản thân. Bởi vậy, không có một quan điểm nào hoàn hảo tới mức nó hoàn toàn đúng hay hoàn toàn sai. Bức tường định kiến cũ kỹ phân cách giữa chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy vật, giữa thế giới tinh thần và thế giới vật chất, giữa hữu hình và siêu hình đã đổ sụp trước sự kiểm chứng khắt khe của thực tiễn cuộc sống. Là con chiên "chẳng đắm mê Thiên Đường", là Phật tử "Niết Bàn không màng tới", triết luận của Lê Quốc Hán không khô khan, đầy thổn thức, chứa chan vị đời trong một giọng nói giản dị và mềm mại: Ngu ngơ chạm phải ao làng. Sen chưa kịp hái đã tàn trên tay. (Bài thơ thời gian). Ở tuổi trí thiên mệnh, với thơ, nhà toán học đã dùng trí tuệ của mình bắc cầu nối hai bờ xa thẳm tâm linh và vũ trụ. Cuộc đời thì rất thật, nhưng thực ra nó chỉ là một ảo ảnh: Cỏ xanh đang đợi trước mồ Thương tôi tôi vẫn mơ hồ kiếp tôi. Hình hài cát bụi phiêu lãng suốt hai tập thơ, làm bầm dập cả cõi lòng "Nụ cười và nước mắt/chia đều cho em anh". Thơ Lê Quốc Hán là cái nhiệt kế nhạy cảm trước mưa nắng đời người. Những vần thơ "vụng cải rơi kim" của anh mở lòng ra với mênh mang tình người, biết yêu ghét đúng mực từ cái "tôi" đơn lẻ", nhỏ nhoi của riêng mình. Tóc xưa xanh một màu mây Nay thành mưa trắng rơi đầy áo nhau ... Xin đừng ướt đỏ đôi mi Kẻo mai ngập hết đường đi lối về (Muộn) Và thế là, Lê Quốc Hán đến với thần Lưu Linh như một dẫn chất đưa con người hưởng một thú vui trần thế hơn tìm lãng quên như bao gã Chí Phèo khác. Tỉnh và mơ, mơ và tỉnh, Lê Quốc Hán rất thật tình với mình và cởi mở cùng bạn đọc. "Trót sinh ra để yêu thương - xòe tay nhặt hết hạt buồn gần xa". Tâm hồn anh lắng đọng, nhỏ nhẹ và buồn thấm cất lên lời độc thoại. Giữa cái lãng đãng cốt cách Đường thi, cái sương khói nhạt nhòa của dân ca xứ Nghệ ở các bài thơ, ta bắt gặp sự tỉnh táo đọng lại ở nhiều câu chữ. Nhà thơ Hoàng Hưng suốt đời đi "tìm mặt" trong tuyệt vọng, Lê Quốc Hán cũng đi tìm mặt mình. Khó lắm. Anh chỉ mong: "Mai sau từ giã cõi người - biết đâu tìm được chính tôi bây giờ"? Xuất thân trong một gia đình trí thức, cha chú của Hán đều am hiểu văn hóa phương Tây, đặc biệt sành văn học Pháp. Mẹ Hán là một con chiên sùng đạo. Hán lớn lên bằng sữa mẹ, ca dao, thơ Nguyễn Bính, kinh Sấm truyền, kinh Phúc âm, và những tủi nhục bất công chồng chất. Vốn là một thần đồng toán học, Hán đã phải chịu nhiều long đong lận đận suốt cả thời niên thiếu bởi "chủ nghĩa lý lịch" khắc nghiệt. Năm học lớp 7 (1965), Hán đoạt giải học sinh giỏi toán toàn miền Bắc. Lớp 8 thi vào chuyên toán Đại học Tổng hợp đạt điểm 20,5/20, nhưng địa phương hẹp hòi không cho cắt hộ khẩu chuyển đi. Lớp 9 Hán đoạt giải Nhất cuộc thi toán do báo Toán học & Tuổi trẻ tổ chức (Từ đó, Hán đã gắn bó chặt chẽ với tờ báo này cho đến ngày nay). Lớp 10, Hán đi thi học sinh giỏi cả hai môn văn và toán ở tỉnh, nhưng bị can thiệp của địa phương nên bài không được chấm. Giống như mười năm "đóng cửa tạ sách" của Phan Huy Chú, Hán đành phải cam chịu cày ruộng ròng rã suốt mười năm trời (!?). Hán chỉ may mắn khi gặp được Giáo sư Lê Văn Thiêm lúc đó (1976) là viện trưởng Viện Toán học Việt Nam phát hiện ra, thưởng vì có kỳ tích trong việc nghiên cứu và giảng dạy toán sơ cấp, đã đề nghị đặc cách cho Hán vào thẳng Đại học Sư phạm Vinh không qua kỳ thi chung. Lê Quốc Hán học Đại học và Thạc sĩ đều giỏi, đứng thủ khoa. Nhưng rồi mãi đến tuổi 42, trường mới mở khóa nghiên cứu sinh đầu tiên, Hán được cử đi học, bảo vệ thành công học vị Phó Tiến sĩ. Các lĩnh vực khác không nói làm gì, về toán học hiện đại, tuổi ấy là quá muộn để sống với nó. Chính trong những năm tháng sống mất thăng bằng đó, Hán đã đến với thơ, dưới sự dìu dắt của nhiều người. Người ảnh hưởng trực tiếp mạnh nhất là nhà thơ nhà giáo Hà Quảng. "Với tôi, thơ là con thuyền độc mộc chở tâm linh v ượt mọi ghềnh thác để đến bến vĩnh hằng", với "thập tải phong trần" (mười năm gió bụi - chữ dùng của Nguyễn Du) làm chất liệu sống cho thơ, Lê Quốc Hán hành hương về nguồn. Chẳng tìm được gì cả trên con đường thẳm gập ghềnh, buồn nản và vô vọng đó, nhưng Hán đã hái được nhiều hoa thơm, xoa dịu được phần nào trái tim tan nát của mình, mặc dù anh không có ý định trở thành thi nhân. Cát vàng sóng cuốn về khơi Chỉ mong sót lại thơ tôi một dòng (Dã tràng) Với điểm tựa là tâm linh, cùng cách giãi bày biệt lập, thơ Lê Quốc Hán là sự dung hòa giữa thơ và hiện thực, ẩn chứa chiều sâu cuộc đời trong một giọng thơ dung dị, đằm thắm, giàu suy tư, hướng thiện. Lê Quốc Hán làm thơ đều tay, rất ít bài trung bình, phần lớn khá trở lên. Đọc Lê Quốc Hán, tôi cứ mường tượng tới một Hàn Mặc Tử mới đang tái thế với một tầm vóc văn hóa cao hơn. Hãy thử chờ xem! T.D.H (136/06-00) -------------------------------------------------- (*) Phó Tiến sĩ LÊ QUỐC HÁN còn có bút danh khác: Ngọc Hà, sinh ngày 16-4-1949 tại làng Dinh Cầu, xã Kỳ Châu, Kỳ Anh, Hà Tĩnh. Quê cha mẹ: xã Sơn Tần, huyện Hương Sơn, Hà Tĩnh. Năm 1968, tốt nghiệp phổ thông. Từ 1968-76: làm ruộng và dạy học ở quê nhà. Năm 1976-80: học khoa Toán Đại học Sư phạm Vinh. Năm 1980-81: học thạc sĩ ngành Toán, Đại học Sư phạm Vinh. Năm 1982-91: giàng dạy tại khoa toán Đại học sư phạm Vinh. Năm 1991-95: làm nghiên cứu sinh, tháng 1-1996 bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ toán học hiện đại với đề tài Sự liên hợp các p-nhóm con Sylow của nhóm compact địa phương. Từ 1996 đến nay vẫn tiếp tục giảng dạy tại khoa toán trường Đại học Sư phạm Vinh. Hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Nghệ An (1996) Đã in: Lời khấn nguyện, Hội Nhà văn 1996, Kỳ Vọng (chung với 5 nhà thơ gốc toán: Thạch Quỳ, Lê Quốc Hán, Vương Trọng, ĐẶng Hấn, Phi Tuyết Ba), Văn nghệ TP Hồ Chí minh 1998; Bến vô cùng, Nxb Văn học 1999. |
VŨ NGỌC KHÁNHLTS: Ngày 17-11-2007, tại Văn miếu Quốc tử giám Hà Nội, Trung tâm Minh Triết Việt đã tổ chức Lễ tưởng niệm các nhà giáo Đông Kinh Nghĩa Thục. Giới trí thức học thuật của Hà Nội, nhiều thanh niên, sinh viên và hậu duệ của một số nhà Đông Kinh Nghĩa Thục (ĐKNT) đã đến dự.
MAI VĂN HOAN Nhà xuất bản Văn học vừa ấn hành tập thơ Cõi lặng của Nguyễn Khoa Điềm. Cõi lặng gồm 56 bài, đa phần được viết sau khi tác giả nghỉ hưu. Điều đó cũng là lẽ thường. Các nhà thơ như Nguyễn Trãi, Nguyễn Công Trứ, Nguyễn Khuyến... đều như thế cả. Khi đương chức họ bận trăm công nghìn việc. Phải đến lúc nghỉ hưu họ mới sống thoải mái hơn, dành nhiều thời gian cho thơ hơn. Đọc Cõi lặng ta mới thấu hiểu tâm trạng của nhà thơ, mới nghe được nhịp đập của một trái tim nhiều trăn trở.
HỒNG NHU“Trường đại học của tôi” là cuốn sách thứ 4 của Nguyễn Nguyên An (tức Nguyễn Văn Vinh) trình bạn đọc trong khoảng mười năm trở lại đây. Ba cuốn trước là truyện ngắn, cuốn này là truyện dài.
NGUYỄN KHẮC PHÊChỉ mới qua hai tác phẩm “Báu vật của đời”(NXB Văn nghệ TPHCM, 2001) và “Đàn hương hình”(NXB Phụ nữ, 2002), Mạc Ngôn - nhà văn “hạng nhất” thuộc Cục Chính trị Bộ Tổng Tham mưu Quân giải phóng Nhân dân Trung Quốc - đã trở nên nổi tiếng ở Việt Nam, thậm chí đã vượt lên cả những “ngôi sao” quen thuộc như Giả Bình Ao, Trương Hiền Lượng, Vương Mông... và cả nhà văn Cao Hành Kiện (Noben 2001).
ĐỖ XUÂN NGÂNTôi hân hạnh được đọc tác phẩm Đời hoa, tập tản văn của nhà văn Nguyễn Khắc Phê do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành 1999.
NGUYỄN QUANG HÀ(Đọc Lãng Đãng Mây Trời của Thanh Nhơn - NXB Thuận Hoá - năm 2001)Gấp tập thơ "Lãng đãng mây trời" lại, tôi như thấy dưới mái tóc bồng bềnh trong gió của ông là cặp mắt nhìn xa xăm, phiêu diêu, và quanh đâu đây là hương rượu nếp thơm nồng toả ra từ vành môi tủm tỉm cười của ông.
HOÀNG BÌNH THI (Đọc thơ HÀ MINH ĐỨC)Trong cơn mưa đầu mùa tầm tã của xứ Huế, tôi đọc lại những bài thơ của giáo sư Hà Minh Đức với một nỗi buồn riêng. Một chút ngạc nhiên mà chẳng ngạc nhiên chút nào, khi song hành với sự uyên bác trong học thuật là một tâm hồn nhạy cảm và tinh tế vô cùng.
LÊ THIẾU NHƠN(Tản văn và bình văn của nhà văn - nhà báo Trần Hữu Lục)Một cuốn sách tập hợp những bài báo của nhà văn Trần Hữu Lục sau nhiều năm anh đồng hành với bè bạn văn nghệ.
HOÀNG KIM ĐÁNGÔng nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ này là một trong những nhà văn châm biếm đứng hàng đầu thế giới. Hai mươi năm trước, ông đã đến Việt . Sở dĩ tôi khẳng định chắc chắn như vậy, bởi tôi có trong tay dòng bút tích ghi rõ năm tháng và chữ ký của tác giả; thậm chí còn chụp ảnh kỷ niệm với ông nữa. Tấm ảnh ấy, những dòng bút tích ấy, hiện còn lưu giữ trong cuốn truyện "NHỮNG NGƯỜI THÍCH ĐÙA", sách đó Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới của Hội Nhà văn Việt Nam xuất bản lần thứ nhất.
HỒ THẾ HÀ(Đọc Cho từng ánh lửa, tập thơ của Hải Trung, NXB Thuận Hoá - Huế, 1999)Sự hiện diện của thơ Hải Trung trong đội ngũ những người sáng tác trẻ ở Huế là một niềm vui sau nhiều năm lặng lẽ âu lo của nhiều người về thế hệ làm thơ kế cận của xứ sở được mệnh danh là giàu mơ mộng thi ca này.
NGUYỄN XUÂN HOÀNG(Đọc tập truyện "Ngôi nhà hoang bí ẩn" của Phan Văn Lợi)Tôi đọc mê mải tập truyện đầu tay của tác giả Phan Văn Lợi. Cái tựa "Ngôi nhà hoang bí ẩn" gợi trong lòng người đọc một câu hỏi ban đầu: Cuốn sách viết về cái gì đây? Càng đọc, càng bị cuốn hút khi cùng anh trở lại miền ký ức, để đi qua những năm tháng chiến tranh khốc liệt.
LÊ MỸ ÝSau một loạt tác phẩm và tác giả được giới thiệu trên nhiều lĩnh vực tôn giáo, triết học, văn hoá, khoa học và nghệ thuật để làm tư liệu nghiên cứu và tham khảo, trong quý một năm nay, Nhà xuất bản Văn học lại tiếp tục cho ra mắt bộ sách lớn:"Krishnamurti - cuộc đời và tư tưởng" do Nguyễn Ước chuyển ngữ. Đây là một bộ sách công phu và được nhiều độc giả chờ đợi đón đọc.
VĂN CẦM HẢI (Nằm nghiêng - Thơ- Nxb Hội Nhà văn 5/2002)Trên đất Thư "viết buồn thành mưa". Dưới trời Thư "viết buồn thành gió". Giữa đời Thư "viết nỗi buồn sống".
TRẦN THUỲ MAIThơ Ngàn Thương bàng bạc một nỗi quan hoài. Trong thơ anh, ta luôn gặp một vẻ quyến luyến ngậm ngùi, đúng như ấn tượng từ cái bút danh của tác giả: Ngàn Thương.
NGUYỄN TRỌNG TẠOLTS: Vậy là đã đúng một chu kì World Cup, nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường bị “cải bệnh hoàn đồng” và phải tập ăn tập nói, tập đi tập đứng lại từ đầu. Dù vậy, anh vẫn viết được và viết hay như trước.Trong dịp Festival Huế 2002, đã diễn ra một cuộc hội thảo văn học về Hoàng Phủ Ngọc Tường nhân bộ tuyển tập của anh được Công ty Văn hóa Phương ấn hành.Sông Hương xin trân trọng giới thiệu một số ý kiến đã thành văn được trình bày trong hội thảo đó.
NGUYỄN THIỀN NGHIHai chữ "Trăng lạnh" trắng trên nền bìa màu lam do tác giả tự trình bày bềnh bồng một chút tôi bằng những bài thơ tự sự của mình.
VỌNG THẢO(Đọc sách "Nhà văn Thừa Thiên Huế" – NXB Thuận Hoá 2002).Trải qua nhiều thế kỷ, Huế bao giờ cũng là miền đất tụ hội nhiều nhân tài văn hoá - văn học của đất nước. Trong bảng quang phổ bản sắc Việt Nam vô cùng bền vững, miền đất hội tụ nhân tài ấy luôn đằm thắm, lấp lánh một bản sắc "thần kinh" riêng biệt - một bản sắc mà tiếng nói của văn chương là thuần khiết và đa dạng.
NGUYỄN VĂN HOA Tôi đã đọc sách Ăn chơi xứ Huế của nhà thơ Ngô Minh (*) một mạch như bị thôi miên. 247 trang sách với 36 bài bút ký viết về triết lý ẩm thực Huế, về các món ăn Huế như tiệc bánh, cơm muối, mè xửng, tôm chua, chè Huế, bánh canh, bún gánh, nem lụi, hôvilô (hột vịt lộn), bánh chưng, bánh khoái, cơm chay, chè bắp, món vả trộn, cháo lòng, rượu Minh Mạng Thang...
KIM QUYÊNĐọc tản văn của nhà văn Mai Văn Tạo (*) và nhà văn Trần Hữu Lục (*) tôi như đứng trên những tảng mây lấp lánh sắc màu, theo gió đưa về mọi miền, mọi nẻo quê hương.
HƯƠNG LANGuy de Maupassant sinh ngày 5-8-1850 ở lâu đài xứ Normandie. Trong một gia đình quý tộc sa sút. Khi mà nước Pháp vừa trải qua cuộc đụng đầu lịch sử giữa giai cấp tư sản hãy còn nhức nhối những vết thương thất bại của cuộc cách mạng năm 1848.