Khe cửa hẹp

08:41 18/11/2009
ĐÀO PHONG LAN         Tôi là đứa con gái duy nhất của cha mẹ, và trời cũng ban cho tôi một nỗi bất hạnh để tương xứng với niềm hạnh phúc của một đứa con chắc chắn được cưng chiều: Tôi bị liệt hai chân từ bé.

(Ảnh: Internet)

Chỗ ngồi muôn thủa của tôi là chiếc xe lăn đắt tiền. Nó khác đôi chân con người ở chỗ khi di chuyển không bao giờ rời mặt đất. Nhưng giống đôi chân tôi, theo năm tháng vẫn không lớn thêm lên. Tôi mười lăm tuổi. Với hình hài thiếu nữ và đôi chân trẻ con. Bố mẹ tôi đi làm cả ngày. Bà giúp việc cặm cụi trong bếp. Tôi chia sẻ nỗi buồn với khe cửa hẹp. Cánh cửa thứ hai của căn hộ không bao giờ mở, nó bị khóa bởi tôi không thích "nhà thì nhỏ mà thiên hạ cứ tứ phía thông thống nhìn vào". Tôi đồng ý với bố, bởi nếu mở cánh cửa ấy ra tôi sẽ không còn góc nào để ngồi cho đỡ vướng víu, để có thể giấu mình đi. Bố tôi khóa siết nó lại, và với chiều cao một mét sáu lăm của mình, ông không hề phát hiện thấy hai cánh cửa kông hề khép chặt vào nhau, tạo thành một cái khe khá rộng có thể nghé mắt nhìn ra ngoài, nằm ở chiều cao một mét tính từ dưới đất lên của cánh cửa, đúng tầm mắt một người ngồi.

Qua khe cửa ấy, tôi thấy một thế giới đầy âm thanh và màu sắc. Đầy bí mật. Tôi biết mình sẽ chẳng bận tâm và thích thú gì nếu tôi nhìn qua một khung cửa rộng. Không gian càng hẹp, càng tạo nên những góc khuất không nhìn tới, càng khơi gợi trí tò mò. Tôi dán mình vào xe lăn, dán mắt vào khe cửa từ sáng đến tối, trò chơi duy nhất và hấp dẫn nhất của tôi.

Tôi mười lăm. Tôi thiếu nữ. Mà thế giới đàn ông sau khe cửa kia thật là mới lạ. Anh chàng tóc hơi xoăn ở trán kia đẹp trai quá, chừng mới hai mươi. Anh ta ở phòng số bảy. Một ngày anh ta ra vào hành lang chục bận, tôi nhận ra anh ta nhờ tiếng dép kéo lê như của một bà lão già nua mệt mỏi, rồi anh ta xuất hiện. Da trắng, mắt sáng, dong dỏng cao. Gợi nhớ đến một buổi mai dịu mát của sương, của cỏ, của cái hơi đất ngai ngái sau một đêm mưa hạ. Và anh ta hát, giọng hát thì hơi buồn tẻ, ê a. Nhưng không sao. Đâu phải lúc nào người ta cũng hát? Sẽ không hát nếu như đang phải nói. Đấy! Anh ta đã ngừng hát rồi:

- Mẹ thì lúc nào cũng tớn lên! Nó lớn rồi, mặc xác nó! Nó thích đàn đúm thì cho nó chết! Con gái con lứa mới mười bảy mười tám mà lúc nào cũng lang lác ngoài đường. Mẹ ngày trước chắc cũng thế thôi chứ hơn gì! Giờ mới ba tám tuổi mà hai đứa con hoang!

Tôi và bà mẹ kia cùng nhăn mặt. Giọng bà mẹ nhỏ, rối vào nhau như chỉ:

- Mày định vạch áo cho người xem lưng hả thằng kia? Câm ngay! Vào trong nhà! Đồ mất dạy! Ai bảo chúng mày là con hoang? Bố chúng mày sắp về...

- Về! Sắp về từ mười mấy năm rồi đấy!

Và tiếng dép sền sệt đặc lại trên đất, anh ta đi qua tôi. Bà mẹ đun đẩy sau lưng, cáu kỉnh nhưng không kém phần cuống quít. Họ chắc đã vào nhà, vì tiếng cửa sập như một tiếng súng nổ.

- Em về nhé! Em yêu! Thiên thần bé bỏng của anh! Mơ thấy anh nhé! Ôi sao mà anh yêu em quá! Anh lại phải đếm từng giây để mong nó chóng qua, để chờ đến chiều mai ta gặp lại. Anh sẽ ngắm sao, vì sao là mắt em. Anh sẽ nhìn trăng, vì trăng là khuôn mặt em ngời ngợi...

Đó là tiếng anh bạn trai của cô em. Có lẽ anh ta là một nhà thơ, một tiểu thuyết gia hay ít ra cũng là trưởng đoàn nghệ thuật cải lương. Hôm nào anh ta cũng nói những lời tương tự, và cô gái sao mà quá chừng bẽn lẽn. Đôi khi tôi thấy cô giang hai cánh tay, như sắp bay lên. Hôm nay họ đưa nhau về sớm hơn thường lệ, tôi có thể hy vọng nhìn thấy anh chàng kia, vì đèn hành lang vẫn còn sáng. Cô gái đi qua trước, tôi nín thở nhìn. Đó chắc chắn phải là một chàng trai đẹp trai và tao nhã và có học và. Họ đột ngột đứng lại ngay trước tầm nhìn của tôi. Anh ta hôn trìu mến lên những ngón tay cô, đẩy nhè nhẹ thiên thần bé bỏng của anh về phía trước. Thiên thần bé bỏng của anh chạy vụt vào nhà, mắt đầy lệ, như đấy là lần gặp gỡ cuối cùng. Tôi nhìn chăm chú vào anh chàng tao nhã. Anh ta đang ngẩng lên. Đang ngoáy mũi. Và khạc nhổ.

- Mẹ kiếp! Con bé bám dai như đỉa! Thiên thần mới chả thiên lôi! Thiên thần nhất bây giờ là rượu và thịt chó. Đi làm vài miếng, xong dọn hàng tối cho bà vợ xề bán bún ốc.

Có gì đau lan ra ở ngực. Tôi nhắm mặt lại. Mở ra ngay khi nghe tiếng bố:

- Nào con gái! Bố đưa con về phòng nhé! Khuya rồi!

Có những buổi sáng tinh mơ đẹp đẽ như buổi mai này. Khi những chiếc lá đáp nhẹ vào khung cửa, bời bời khoe sắc óng ả vàng. Hành lang vắng và ngái ngủ. Tôi nghe thấy tiếng lạch xạch nho nhỏ của líp xe. Người đàn ông ở phòng số năm đang dắt xe cho vợ đi làm. Một người đàn ông nhỏ thó, râu tóc lẫn màu với áo quần. Ông ta đang đi ngang qua tôi, tiếng thở dài thườn thượt. Mùi nước hoa sực nức đi trước, cô vợ theo sau. Và cũng hoàn toàn ngẫu nhiên, họ nhờ tôi nghe câu chuyện của họ:

- Chiều nay em về ăn cơm nhé! Anh sẽ nấu canh sườn với khoai tây. Cả cá rô rán nữa.

- Chẳng biết được! Xong việc thì về!

- Anh chờ cơm đấy! Trời hơi lạnh, sao em không quàng khăn, cổ áo rộng thế, lại ho cho mà xem!

- Mặc tôi! Đàn ông mà đến lắm lời! Vào nhà kẻo con thức, nó khóc váng lên bây giờ.

- Đừng về muộn quá nhé! Hôm nay đài báo sẽ có gió mùa đông bắc vào buổi tối. Em...

Những vòng xe quấn lời của người đàn ông đi mất. Ông ta đứng thờ thẫn trước mặt tôi, cam chịu.

- Lại về lúc nửa đêm ấy thôi! Sẽ bay đi mùi nước hoa, thay vào đó là mùi rượu nặng. Lại mâm cơm nguội ngắt, và thằng bé sẽ phải ăn thức ăn nấu lại vào ngày mai. Tội nghiệp nó.

Cánh cửa phòng số bốn mở ra dột ngột. Ồn ào.

- A! Chào ông anh! Làm gì mới sáng sớm mà cằm đã chạm rốn thế kia? Vào nhà em làm ấm trà ta nói chuyện phiếm.

- Cảm ơn chú! Tôi phải dọn dẹp lại nhà cửa, rồi chợ búa cơm nước cho thằng bé đi học chiều. Thôi khi khác!

- Khác là hôm nào? Hưởng thụ là phải ngay tức thời! Ông anh ăn chắc mặc bền quá đấy. Đời được mấy nỗi? Đấy! Thằng cha gì ở đầu hồi dãy bên kia, ki cóp mãi, nhịn ăn nhịn mặc mãi, dành được mấy chục triệu, trên đường đến ngân hàng xe nó húc mẹ cho một cái, tiền dành dụm hóa để làm đám ma. Vào tay em, em cứ ăn chơi phứa đi hóa sướng. Chết rồi thì biết cóc gì nữa mà lo.

- Tôi nói thật! Tôi đang bận. Xin chú hôm khác!

Ông biến mất. Trong tầm nhìn còn lại người đàn ông phòng số bốn. Quần Jean xanh, áo sơ mi đỏ. Mặt vành vạnh sung mãn.

- Đàn ông chó gì cứ cun cút ở nhà, lê la với đống quần áo bẩn. Vợ thì có ra vợ! Lèm nhèm với từ thằng gác cổng đến lão giám đốc. Thế mà cứ nâng như nâng trứng. Vào tay ông, ông thì...

Ông ta vuốt mớ tóc dựng phồng như bờm ngựa. Mỗi lần nhìn vào chỏm tóc ấy tôi cứ tưởng rằng ông ta sắp hí lên. Và ông ta hí thật:

- Quý... ý...ý! Sao mày kéo lê cái chổi như thế? Thằng ranh, quét có cái nhà mà mất cả ngày! Ngữ mày chỉ đi gánh phân là xứng. Xem kìa! Trời ạ! Quét ra đầu hồi bên kia! Xong đặt cho tao ấm nước. Giờ hồn! Để nó cạn ráo thì đừng trách! Bảo mẹ mày đi mua cho tao bát phở. Tái đấy nhé. Nhiều hành. Hôm nào cũng dặn mà cứ như điếc cả lũ. Rồi lại xoen xoét, em quên. Biết thế lấy mẹ con bán phở cho xong việc. Còn đứng ở đó à? Đi! Khẩn trương!

Một thằng bé xanh tái khoảng tám tuổi len lét đi qua. Mặc cho nó tên Quý, ông bố cũng chẳng lấy gì làm quý nó cho lắm. Suốt ngày tôi nghe ông ta rền rĩ về việc học cho đến việc quét nhà của nó. Bà mẹ thì khá ngọt ngào và dịu dàng, bà hay đi qua đây, thường thì lệch một bên người vì bao gạo hay cái giỏ đầy thực phẩm. Có lần bà phàn nàn với mẹ tôi rằng, thằng bé sợ cha nó đến nỗi cứ hôm nào cha nó quát mắng, nó lại bị táo bón.

Bố tôi chẳng quát mắng tôi bao giờ. Tôi cũng không hề nghe thấy ông to tiếng với mẹ tôi hay với bà giúp việc. Ông là người đúng mực, cẩn trọng và đáng tin cậy trong công việc. Ông không phải là người nằm trong tầm quan sát của tôi. Phần tôi nghĩ, ông chẳng có gì xa lạ, phần vì ông chưa bao giờ đi qua khe cửa này. Ông đi cánh cửa bên kia. Sát cánh cửa đó, là phòng số một. Phòng của chú Long. Đôi lần chú đi qua tầm nhìn của tôi để nhờ người đàn ông phòng số năm mua hộ ít thức ăn. Chú đi chậm rãi, đầu hơi cúi. Dáng đi cong cong ấy giống một cái vòm u buồn mỏi mệt. Dưới cái vòm ấy là đứa con gái bé bỏng bảy tuỏi mồ côi mẹ, trưa nào cũng kéo lê cái cặp dọc hành lang đợi bố về. Chú Long là kỹ sư thủy lợi, một công việc mà nhắc đến nó, người ta thấy ngay sự tươi tắn sung mãn của dòng nước. Nhưng khi nhìn chú, tôi chỉ nhớ đến một cái cây bị chết khô. Và từ những cành cây héo hắt, là những lời xanh non:

- Con gái yêu! Con đợi bố có lâu không? Bố xin lỗi vì hôm nay họp muộn. Ta vào nhà nhé! Bố sẽ nấu cơm trong vòng mười lăm phút, con sẽ có cơm ăn ngay. Chắc con đói lắm rồi!

Và tiếng mở khóa lách cách, tiếng lọat xọat ngay sát bên. Rồi mùi thức ăn bay đến bủa vây, chúng ôm lấy tôi dịu dàng. Tiếng xèo xèo của hành tỏi, tiếng liu riu của nồi cá kho, hân hoan reo lên khe khẽ bài hát của tình phụ tử. Tôi nhắm mắt lại, cảm thấy lòng êm dịu, thiêm thiếp ngủ.

Khe cửa hẹp muôn đời là điều hấp dẫn bí ẩn trong chuỗi ngày tháng buồn tẻ và ít chuyển động của tôi. Những người đàn ông của thế giới có thể nhìn qua một khe cửa trở nên quen thuộc. Tôi có thể biết họ sắp làm gì khi quan sát họ. Người đàn ông phòng số bốn đang xoa tay và vuốt vuốt cái bờm ngựa, đấy là khi ông chuẩn bị quát mắng cậu con trai. Chàng thanh niên tóc quăn ra đứng ở hành lang, huýt sáo và ê a hát kia chuẩn bị ngừng bặt bởi bất kỳ một lý do nhỏ nhặt nào đó. Dạo này, hình như chàng đang yêu, vì cái giọng kêu ca thường lệ đã nhỏ đi nhiều. Anh bạn trai của cô em không thấy đến nữa, có lẽ anh ta đã chuyển sang nói những lời ngọt ngào với cái đầu chó thui ở quán nhậu. Cô gái giờ đã ít đi chơi, chỉ còn qua đây vào các buổi sáng để đến trường. Cô sắp tốt nghiệp trung học.

Người đàn ông phòng số năm vẫn dắt xe cho vợ đi làm mỗi sáng. Ông vẫn thả cái bóng cam chịu xuống sàn nhà để mặc nó lầm lũi trườn lên những viên gạch nâu. Tất cả những người đàn ông ấy vẫn mang trong lòng thứ tình yêu bền bỉ và nhẫn nại. Và nhìn vào trong mắt họ, tôi vẫn thấy ánh lên tia sáng của lòng yêu thương. Họ cứ sống như thế, mỗi người tạo nên một góc cạnh trong cuộc đời, và cuộc đời cứ tròn trịa lăn đi.

Rồi đột ngột dừng lại.

- Tôi đã chán cô đến tận cổ rồi. Cô thử nhìn lại mình đi! Cô đã làm được gì cho cái nhà này với tư cách một người vợ nào? Tôi đã lầm lẫn khi lấy cô! Ký vào lá đơn này, nhanh lên! Đừng nỉ non như thế! Chẳng cứu vãn được gì nữa đâu! Yên tâm! Cô vẫn còn trẻ, cô có thể đi bước nữa mà. Tôi sẽ nuôi con bé.

Tôi quay chiếc xe lại. Lần đầu tiên trước mắt tôi là một khoảng mênh mông rộng rãi. Mẹ tôi đang khóc, và bố tôi đứng đó, tàn nhẫn lạnh lùng. Tôi đã mê mải với khe cửa hẹp, với thế giới bên ngoài, bỏ quên khoảng không gian rộng lớn gấp ngàn lần khe cửa, ngay sát sau lưng tôi. Tôi có thể biết được những căn phòng sau khe cửa kia, từng ngày qua như thế nào, nhưng đã không biết những gì xảy ra trong căn nhà của tôi hôm nay. Tôi nhìn vào mắt bố. Và hoảng sợ. Chúng nhạt nhòa không màu sắc, không đường nét, không cảm xúc, chỉ ánh lên tia nhìn lạnh lẽo, thờ ơ. Quần Jean xanh, áo đỏ. Tóc quăn tuổi hai mươi. Nhỏ thó. Ngôn từ ồn ã, ráo hoảnh: Bố Tôi Ngày Hôm Nay.

Tôi bật dậy.

Rồi ngã bệt xuống sàn. Chiếc xe lăn trượt mạnh về cánh cửa khóa, đập mạnh vào nó. Cái khóa bật tung ra. Chấp chới một khoảng không quen thuộc đầy xa lạ. Không còn khe cửa hẹp nữa. Trước mắt tôi là khoảng không, sau lưng tôi là khoảng không.

Tôi mười sáu tuổi.

29.03.1999
Đ.P.L
(127/09-99)
 




 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • TRẦN KIÊM ĐOÀN Ngôi nhà một thời là tổ ấm trên đồi bỗng trở thành rộng gấp đôi, gấp ba và vắng vẻ như một tòa lâu đài cổ từ khi Bé Út dọn ra khỏi nhà để lên miền Bắc học. Đứa con 18 tuổi trên đất Mỹ nầy rời nhà đi học xa thường có nghĩa là đang bước vào đời, ra khỏi vòng tay cha mẹ, thật khó lòng về lại. Những bước tiếp nối là học ra trường, kiếm việc làm, chọn nhiệm sở như cánh buồm đưa tuổi trẻ ra khơi. Bất cứ nơi nào có thể an cư lạc nghiệp trên 50 tiểu bang sẽ là nơi đất lành chim đậu. Tuổi thành niên tiêu biểu của văn hóa Âu Mỹ là tự lập, gắn liền với  vai trò chuyên môn và xã hội chứ không phải quanh quẩn với đời sống gia đình.

  • ĐỖ PHẤNĐêm rất khuya dưới chân núi H. Khó khăn lắm chúng tôi mới tìm được một con đò bằng tôn móp méo xác xơ. Chẳng hiểu ban ngày trông nó thế nào. Có lẽ đây là chiếc đò bị cấm lưu hành? Không thể có mặt ở bến vào ban ngày. Cũng là cấm làm phép. Dòng suối không có chỗ nào đủ sâu để có thể chết đuối.

  • ĐỖ KIM CUÔNGBây giờ bạn bè ít được gặp anh lang lang trên phố. Thảng hoặc dăm bữa nửa tháng, có khi hơn mới tóm được anh. Ấy là khi anh phải ra khỏi nhà đi nạp bài cho những tờ báo mà anh thường cộng tác, hoặc đi nhận nhuận bút một vài bài thơ lẻ in trên báo.

  • VŨ NAM TRỰC           Truyện ngắn

  • TRẦM NGUYÊN Ý ANHÔng Nhâm bước chầm chậm theo con đường tráng xi-măng ngoằn ngoèo trong con hẻm nhỏ. Căn nhà ông ở cuối xóm, một trệt, một lầu... mới tinh. Cánh cửa sắt đóng im ỉm. Ông ngồi bệt xuống nền xi-măng vì chân ông đã mỏi. Lẽ ra, khi mấy đứa con ông chưa bàn nhau cất lại căn nhà, ông đã có thể đẩy cánh cửa rào bằng tre và đàng hoàng bước vào nhà mình.

  • XUÂN CHUẨNĐể rồi tôi kể cho ông nghe về lai lịch cái quạt, để ông ông khỏi coi tôi là Thằng Bờm có cái quạt mo. Cái thời quạt điện quạt đá, máy lạnh mà cứ bo bo cái quạt kè, thỉnh thoảng lại đạp phành phạch như mẹ hàng cá thách lên giữa chợ. Cũng chẳng có gì li kỳ, hay mùi mẫn rơi lệ, chỉ là chuyện đời tầm phào.Hai ông trải chiếu ngồi giữa sân, nhâm nhi chén trà, ông Thân nói với đại tá Tiến về hưu như vậy khi đại tá ngỏ ý thích cái quạt kè của ông.

  • TRẦN THỊ TRƯỜNG  Bim chào đời vào lúc kém 19 phút. Trăng hạ tuần phun nhẹ màu đục của sữa vào bầu trời. Hôm sau trời lất phất mưa. Bố nói với bà ngoại trước khi đi làm: "Nếu không thấy con về thì bà giúp con cùng nhà con nuôi cháu". Câu nói ám ảnh làm trí tưởng tượng của bà ngoại nhiều lần thắt lại. Sau này nhiều khi bà ngoại sợ cả cái bóng của mình.

  • NAM TRUNG Ông Hãnh cứ đi tới đi lui trong phòng khách nhà ông, vừa đi vừa quạu cọ lẩm bẩm: thằng Hùng nó nói vậy là nó có ý coi thường mình, nó dám trứng khôn hơn vịt. Rồi mày sẽ biết tay ông. Ông sẽ cho mày còn lâu mới được vào Đảng, ông sẽ bác tất cả những đề xuất về mày...

  • HOÀNG THÁI SƠNKhi tôi lớn lên thì nội tôi đã mất từ lâu nhưng thỉnh thoảng dân làng vẫn nhắc đến người với niềm cảm mến về những chuyện không ít ly kỳ. Ông tôi rất khoẻ, người tròn vo, đen như sừng, tục danh Cu Trắt - phương ngữ vùng quê tôi nghĩa là nhỏ và rắn chắc. Ông ham mê võ thuật, thạo côn quyền, thuở trai thường đóng vai ông địa trong đám múa lân. Đám múa năm nào hễ thiếu ông là coi như nhạt trò, dân làng chẳng ai buồn xem. Người ta đồn ông tôi tài ba lỗi lạc, như có thể đi trên lửa, nhảy qua nóc nhà, còn những thứ chui vào hậu cung đình làng mà không cần dở ngói là xoàng... Kho chuyện về ông ngày càng dày do mồm miệng dân gian thêu dệt thêm, tuy nhiên trong đó nhiều chuyện là có thật.

  • PHAN XUÂN HẬUTôi trở về quê sau mười năm xa cách. Quê tôi nằm cuối con sông Vẹn, con sông này là nhánh của sông Dinh, bắt nguồn từ dãy núi Gám, chảy qua bến Dền. Nơi đây xưa kia là kinh đô của vua Dền. Vua Dền tụ tập lực lượng chống lại nhà Trần khi đó đang trấn áp nhà Lý. Vua Dền là hậu duệ của Lý Thái Tổ, ông không chịu sự chuyên quyền của vua tôi Trần Thủ Độ bèn lập căn cứ ở miền Tây Yên Thành, tức quê tôi, và Dền là kinh thành của ông, dân quen gọi ông là vua Dền.

  • NGUYỄN VĂN VINHTết Mậu Thân năm ấy tôi tròn mười sáu tuổi. Soi gương, tôi thấy y xì một con bé tóc lơ xơ hoe nắng, xấu tệ.

  • CHÂU DIÊNĐơn vị của tôi đi bộ từ một tỉnh miền Trung, lên qua Mường Phăng thì Điện Biên đã giải phóng. Sau một tháng đi bộ nhưng gần như chạy bộ, chúng tôi được phép nghỉ lại hai ngày ở một bản, hồi đó bản này nằm khá sâu trong rừng, nhưng nay thì nó đã ở bên một nhánh đường mới làm dẫn ra phố huyện Tuần Giáo để nối vào con đường số 6 chạy tuốt lên Điện Biên Phủ.

  • NGUYỄN TRƯỜNGLàng Hạ nằm phía hạ nguồn sông La Ngà. Đất chật. Người đông. Đói nghèo thành nếp. Hồi hai bên đánh nhau, nơi đây là vùng địch hậu. Giải phóng hơn chục năm mà làng Hạ đói nghèo vẫn hoàn nghèo đói. Không ít người bỏ làng đi xa chẳng thèm ngoái cổ nhìn lại. Vậy mà hơn mười năm lại đây, nhờ vực dậy cái nghề tơ tằm truyền thống vốn có từ xưa, làng Hạ đang trở thành một làng nghề giàu có nhất nhì trong vùng. Nhà cũ lỗi thời phá đi xây mới. Đường làng bùn lầy được thay bê-tông. Trường tiểu học tranh tre nứa lá hồi nào nay lên hai tầng. Điện lưới dọc ngang khắp làng đã đẩy năng suất ươm tơ kéo sợi lên cao chưa từng thấy. Chất lượng tơ tằm đạt chuẩn xuất khẩu. Hàng bán chạy hơn cả tôm tươi. Thu nhập người dân ngày một cao.

  • LÊ TRÂMNgồi với tôi và Kh là một đôi nam nữ còn khá trẻ. Chàng thanh niên, theo lời gã, vừa mới về từ Thái Lan sau khi trúng một hợp đồng béo bở. Gã là đại diện của một công ty xuất nhập khẩu nổi tiếng ở bên ấy.

  • NGÔ TỰ LẬPCó lẽ tôi đã ngủ rất lâu trước khi bị lay dậy một cách dữ dội. Tôi cố nằm thêm, mặc dù đó không phải là thói quen của một người lính cũ. Thường thì tôi bật dậy ngay. Trước khi tôi vào lính, cha tôi, một đại tá từng trải ba cuộc chiến tranh, chỉ dặn mỗi một câu: “Hãy chồm dậy ngay tiếng còi báo động đầu tiên!”. Lời dạy của ông tôi làm theo trong suốt thời gian tại ngũ và cả khi giải ngũ. Nhưng có những lúc ta không làm chủ được mình. Tôi thấy mình đau ê ẩm và phải một lúc khá lâu sau tôi mới chậm chạp mở mắt.

  • PHẠM THỊ CÚCTừ những ngày thơ bé còn cắp sách đến trường cho đến khi đã bước vào đời, con cái đã khôn lớn và trưởng thành, trong ký ức của tôi vẫn luôn lưu giữ những hình ảnh sinh động và kỳ diệu của hàng ngàn con cò trắng rợp cả cánh đồng bát ngát, những cánh rừng và vườn cây trĩu nặng vô vàn chim chóc, hình ảnh chim cò thân thiết đậu cả trên vai người, trên đầu người, quẩn dưới chân người... là chuyện của Vùng Đồng tháp Mười qua những trang viết hấp dẫn của các nhà văn Sơn Nam và Đoàn Giỏi.

  • MAI NINHTrong khoảng giữa buổi chiều thăm viếng cơ sở và dạ tiệc, tôi chạy về nhà thay quần áo. Dưới vòi nước ấm, tôi nao nao xúc động nhớ lại từng khuôn mặt bạn bè. Ngoài một hai người thỉnh thoảng gặp nhau nhờ ở lại nơi này sau khi tốt nghiệp, còn hầu hết thì sau một phần tư thế kỷ đã qua đi, bây giờ mới tái ngộ. Làm sao không ngẩn người trước những tên bạn ngày xưa mặt mũi căng hồng tí tửng nhố nhăng, giờ đây làn da gấp nếp, râu ria đạo mạo, ra dáng sếp lớn sếp nhỏ cả rồi. Và dấu chân chim của thời gian càng rõ rệt hơn nữa, nơi những cô đầm bạn gái của tôi.

  • MAI NINH- Rối, Rối ơi! Dậy đi nào. - Nằm mãi đây cũng đừng hòng có ai lượm xác đem chôn. - Dậy đi! Rối ơi.

  • ANH DƯƠNGCòn sống đến nay, ông tôi phải hơn trăm tuổi. Trước ngày chết, ông kể cho tôi câu chuyện thương tâm này.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNG1. Từ Huệ nằm thiêm thiếp bên cạnh án thư. Tóc râu chàng bạc trắng. Đêm qua, ngoài trời mưa gió to quá. Chàng không làm sao ngủ được. Từ Huệ sợ mưa, sợ phải nghe thấy những âm thanh cuồng nộ của trời đất. Điệu luân vũ ấy là nỗi ám ảnh khi chàng còn là một anh khóa vô danh.