Khẩu vị của người Huế

08:48 04/07/2011
BÙI MINH ĐỨC (Tiếp theo Sông Hương số 267, tháng 5 - 2011)

BS Bùi Minh Đức trong buổi giới thiệu sách "Văn hóa ẩm thực Huế" tại TTVH Liễu Quán

[if gte mso 9]> Normal 0 false false false MicrosoftInternetExplorer4 <![endif][if gte mso 9]> <![endif][if !mso]> <![endif][if gte mso 10]> <![endif]

5. Người Huế thích ăn chua

Người Huế rất “sính ăn chua” và cũng rất sành ăn chua. Ở Huế, họ có “trái khế”, “trái bứa”, “trái cốc”, “trái bòn bon”, “trái xoài non” và “trái dâu truồi”. Tất cả các thứ trái này đều chua, không ít thì nhiều nhưng đối với dân Huế thì họ cho là “ngọt”. Chua nhất là trái khế cho dù là khế ngọt. Ở Huế có hai thứ khế: khế chua khế ngọt. Cả hai thứ đều chua, hơn nhau “một chín một mười” mà thôi. Muốn cho cây khế trở thành ngọt, họ thường đổ vôi dưới gốc cây dưới dạng “dĩ hạ” và họ mong là chất vôi trong “dĩ hạ” sẽ làm cho cây khế dần dần trở nên ngọt, “không đời nay thì vào đời cháu đời chắt” của họ. Tuy nhiên, tương truyền ở trong Đại Nội nơi vua ở, có trồng cây “Khế Ngự” rất xưa và rất ngọt do địa phương tiến cống. Nghe đâu sau này, cũng đã có người ở Huế “chiết cành” được cây “Khế Ngự” đó.

Trái bòn bon” là một đặc sản của Huế và của Xứ Quảng. Tương truyền xưa kia khi vua Gia Long đi đánh Tây Sơn, gặp lúc hiểm nguy, vua phải chạy tránh nạn và cạn lương thực cho cả đoàn tùy tùng ăn. Tình cờ lính của vua ăn thử thứ trái cây mọc nhiều trên chỗ vua đóng quân. Ăn thử thứ trái cây đó, vua thấy cũng ăn được tuy có vị chua. Đưa tiếp cho các tùy tòng người Pháp, họ ăn cũng thấy được nên họ bảo nhau “Bon! Bon!” tức là “ngon” theo tiếng Pháp. Và từ đấy, người dân địa phương gọi thứ trái cây đó là “trái bòn bon”.

Trái dâu Huế” cũng không phải là “ngọt”. Cho dù được ăn “trái dâu ngọt” của Huế, người ăn đôi khi cũng phải nhăn mặt và nheo mắt để tỏ ra rằng trái dâu đó cũng có vị chua. Thiên hạ lại đồn thổi, cho thứ “trái dâu Truồi” mới thật ngọt nhưng không ai “ăn dâu Truồi” mà không nhăn mặt, ngầm tỏ ý “dâu Truồi cũng chua”! Người Huế “thích ăn chua” nên thường cho là “trái ngọt” để tự đánh lừa mình trong cuộc sống. Tuy nhiên với thời gian, cũng không ai “vặn vẹo” cho ra lẽ, để nói ra sự thật. “Chua” mà thành “ngọt” theo dân gian thường là vậy. Và mỗi năm, đến “mùa dâu Truồi”, chợ Huế nào cũng đều có bán và dân Huế vẫn hăm hở mua để ăn theo khẩu vị “thích chua” của mình.      

Thật ra, người Huế lúc nào cũng đã để sẵn một “gói muối ớt” để đề phòng khi gặp phải thứ trái cây chua thì chấm vào gói muối ớt đó mà ăn cho đỡ chua. Chất muối làm nhẹ vị các chất chua. Trường hợp điển hình là trong các cặp da đi học của cô gái Huế nào vào tuổi mới lớn lên cũng đều có “gói muối ớt cứu cái” này. Dân Huế đúng là dân “thích ăn chua”!

Ở Huế, nhà nào cũng cố trồng vài cây chanh lưu niên trong vườn nhà để có đủ trái chanh làm món “chanh vắt” về mùa hè. Trái chanh là nguồn Vitamin C của dân chúng Huế. Họ vắt chanh vào ly, bỏ thêm chút đường rồi khuấy lên cho hòa tan là đã có ngay một ly chanh uống cho mát vào mùa hè. Lá chanh còn dùng để làm món “thịt gà nướng” và khi cần thì hái dùng làm “muỗng xúc” các thứ “lớ” mà ăn, chẳng hạn “bột lớ bắp”, “bột lớ cám”, bột lớ nếp” v.v. “Món lớ” thường được chế biến dưới dạng bột có thêm đường cát vào và thường là một món ăn “bựa lợ” của người Huế lúc ban chiều. Khi đang ăn mà lỡ phải nói chuyện, “lớ” bay ra khỏi miệng “như sương như khói”. Lá chanh quan trọng như vậy nên mới có câu “Con gà tục tác lá chanh, con lợn ủn ỉn mua hành cho tôi”! “Gai chanh” còn dùng để chích vào trong con “ốc bưu” để khều thịt ra ăn. Xem thế, ta thấy người Huế luôn luôn sẵn sàng để ăn!

6. Người Huế thích ăn ngọt

Người Huế rất thích ăn đồ ngọt. Hễ có cơ hội là họ thêm chất đường vào trong người. Nhiều người Huế bảo là họ “thiếu đường kinh niên”! Chẳng thế mà dân cư xứ Huế không có bao nhiêu người mà lại có trên 65 thứ chè. Cũng có người cho rằng họ đã đếm được gần thấu 100 thứ chè ở Huế. “Đường” đối với họ rất quan trọng. Mỗi năm các ghe bầu từ trong Quảng giong buồm ra Huế, đem theo rất nhiều loại đường để bán cho dân Huế. Nào là đường cát, đường phèn, đường bánh, v.v. Lại có cả “đường cối” vì tảng đường có hình thù trông như cái cối lớn và thật sự đã được người Quảng dùng khuôn đúc là cái cối giã để đổ đường vào. Đường bánh là thứ đường hạng bét, thường dùng thứ mật phía dưới cùng của cối đường để làm ra. Gọi là “đường bánh” hay “đường chén” hay “đường bát” đều đúng cả vì họ đã dùng cái bát ăn để làm khuôn đổ đường vào. Đó là thứ “bánh đường đen”, căn bản của kho dự trữ đường trong cơ thể mỗi người Huế thời xưa. Tuy xấu hình vì bánh đường có hình thù của chiếc đọi úp ngược, lại có màu đen và dính “rơm với rác” vì thường được ủ trong rơm, trông không được đẹp mắt nhưng đó là thứ đường mà người Huế thường dùng trong bếp để kho cá bống thệ hoặc để nấu chè. Cụi đồ ăn của nhà bếp nào ở Huế cũng có một hũ đường đen đã được chặt ra miếng nhỏ để dùng hàng ngày để mỗi khi gặp phải trường hợp cần thì lấy ra để kho cá hoặc để cho thêm vào các món ăn xem như một gia vị.

7. Người Huế thích ăn đồ béo

Thích “ăn đồ béo” là một khẩu vị của người Huế. Người Huế luôn luôn thấy “thiếu chất béo” trong cơ thể họ. Họ thích ăn đồ chiên hoặc đồ xào và rất thích tóp mỡ. Ăn gì họ cũng có thể thêm một chút “mỡ nước” mà họ để sẵn trong “cụi đồ ăn”.

7.1.Cơm chiên Huế” khác với cơm chiên các xứ khác là vì người Huế đã chiên cơm của họ với rất nhiều mỡ. Họ để cho cơm chiên mỡ đó vàng ra rồi mới duống xuống. Trong “cơm chiên Huế”, ngoài tiêu muối và thịt hay tôm ra, họ còn cho thêm tóp mỡ và ớt vào cho đúng khẩu vị. Dĩa cơm chiên của họ hình như “loang loáng” nhiều mỡ hơn là cơm chiên các xứ khác.

Khi đói bụng, vào giữa buổi chiều, họ thường lấy dĩa cơm nguội rồi rót vào vài thìa mỡ nước là họ có ngay món “cơm nguội trộn mỡ” rất khêu gợi của họ. Thêm vài tóp mỡ và thêm một chút ớt chín đỏ xắt lát để lên trên mặt của dĩa cơm đó là họ có thể “chấp” tất cả các món ăn chơi khác. Làm sao mà so sánh được với món “cơm mỡ” mà họ đã tự chế biến ra, với tất cả các thứ mà người Huế nào cũng thèm. Đó là ớt cay, mỡ béo và tóp mỡ giòn. Một món ăn khoái khẩu, hợp với khẩu vị.

7.2. Người Huế thích ăn “thịt heo phay” đi cùng với “Tôm chua xứ Huế” hay với “mắm Huế” hoặc với “nước mắm Thuận An” ngon lành của họ. Thịt phay thường có nhiều mỡ nhưng với họ, phải là thứ thịt heo ba chỉ có cả thịt, có cả da và có cả mỡ. Phải trông thấy họ trong các bữa tiệc tại đình làng, ngồi quanh mấy tàu lá chuối làm mâm trải trên nền đình, với những miếng thịt phay ba chỉ chất thành đống, cùng vài chén nước mắm mặn để quanh mâm, mới thấy người Huế bình dân thích mỡ biết chừng nào. Họ mời nhau và gắp bỏ cho nhau. Họ chấm miếng thịt phay “lút” trong chén nước mắm rồi đưa lên miệng ăn một cách thích thú. Họ còn kẹp miếng thịt phay đã chấm với nước mắm đó cùng với miếng xôi mà họ đã dùng đũa để xắn ra khỏi dĩa xôi và đút vào miệng ăn. Cái hể hả của miếng thịt mỡ đút vào miệng họ được thấy rõ trong ánh mắt họ và trong cái thư giãn trên nét mặt họ. Tuy mời nhau và gắp bỏ cho nhau nhưng chỉ thoáng một cái là cả mâm thịt phay và cả mâm xôi đựng trên các tàu lá chuối đều đã trống trơn. Sau khi ăn, khuôn mặt người nào cũng đầy vẻ thỏa mãn. Họ đã có “đầy đủ chất mỡ” trong cơ thể ít nhất cũng đủ năng lượng làm việc lao động cho nhiều ngày sắp tới. 

7.3. Món “bánh bèo Huế” thường là món ăn chơi vào buổi chiều của người Huế. Mỗi khi người nội trợ Huế đổ bánh bèo xong, họ thường chầy một lớp mỡ nước lên trên mặt của dĩa bánh. Mục đích của “chầy bánh bèo” là để cho các chiếc bánh không thể dính vào nhau khi lấy rời ra. Tuy nhiên, người Huế nào cũng muốn chầy một lớp mỡ nước vào dĩa bánh của mình cho thật “ướt sũng”, cho thật “mạnh tay” trên mặt bánh và nhất là người nội trợ phải cho thêm vào càng nhiều “tóp mỡ giòn” càng tốt. Cũng chưa hết, họ còn muốn cho lên trên mặt bánh thật nhiều hành lá cắt ngắn, thứ hành lá đã được ngâm với mỡ nước trong chiếc chén chầy bánh bèo. Và đó là một trong những tiêu chuẩn của một dĩa bánh bèo Huế ngon (theo Bùi Minh Đức, “Bánh bèo ngon...vài tiêu chí,Văn hóa ẩm thực Huế  - 2011). Do đó, bánh bèo rất hợp với khẩu vị của người Huế vì bánh bèo làm bằng bột gạo có thể ăn độn bụng, có mỡ béo chầy lên trên mặt, có cả tóp mỡ ăn giòn và lại có cả tôm chấy để “gợi nhớ” mùi vị của biển cả.

8. Người Huế thích ăn hải sản

Người Huế có xu hướng thích ăn hải sản với mùi tanh tao. Họ thích ăn đồ biển tươi sống, và còn thích ăn những đồ biển đã được phơi khô như cá khô, tôm khô và mực khô, tanh tao gấp bội. Cầm một con mực khô trên tay, đố ai không khỏi nhăn cái mũi đôi chút để tỏ ra cái mũi mình cũng đã cảm nhận được thứ đồ ăn “tanh tao” đó rồi. Tuy nhiên khi con mực khô đã nướng xong thì họ lại ăn một cách ngon lành. Họ cũng còn ăn các thứ cá phơi khô nướng trên lửa và các thứ cá khô nướng đó đều đã trở nên những món nhậu ngon lành. Nói cho đúng, tất cả các thứ hải sản nướng này đều là những món ăn ngon của cả dân tộc Việt Nam ta chứ chẳng phải là của riêng Huế nhưng đó là những món ăn hợp với “khẩu vị của
người Huế
”.

9. Người Huế thích ăn ngọt trộn với béo

Thích các chất béo và các chất đường đã đành nhưng người Huế lại còn có “tật” ăn các món ăn “béo trộn chung với ngọt”. Trong gia tài văn hóa ẩm thực của họ, ta thấy họ có món “Chè bột lọc bọc thịt quay”, “Chè cá thu” là những thứ chè vừa có cái ngọt của đường và vừa có thêm cái mùi béo của các chất thịt mỡ. Họ lại còn có “Kẹo thèo lèo” cũng vừa ngọt vừa béo mà trẻ con ở Huế rất ưa thích. Thật ra, khẩu vị ăn “ngọt và béo” này phát xuất từ những người Huế xa xưa nhưng hiện nay thì các món ăn thuộc loại này đã mất dần dấu vết và ít còn được người Huế chế biến ra.

9.1. Kẹo thèo lèo: Trong các món kẹo Huế, có món “Kẹo thèo lèo” là một thứ kẹo “vừa béo và vừa ngọt”. Sau khi đã nhào nặn bột xong, người ta mới bắt hình bột “quấn quanh” lại cho ra hình “cuốn quanh” của chiếc kẹo thèo lèo. Rồi người ta đem chiếc bột quấn quanh đó ra chiên với mỡ trước cho chín rồi mới cho miếng bột chiên “lăn với đường” tức cho một lớp đường cát trắng dính ở phía bên ngoài kẹo. Trẻ con Huế hồi nhỏ, lúc còn học tại trường tiểu học, không trò nào là không ưa thứ kẹo thèo lèo này. Đến giờ ra chơi, họ kéo nhau xuống “Quán mụ Cai Trường”, thò tay vào thẩu kẹo nắm lấy vài cái để mua ăn cùng với chúng bạn.

9.2. Chè bột lọc bọc thịt quay: Trong “Chè bột lọc bọc thịt quay” của người Huế, người ta dùng bột lọc bao quanh một miếng thịt quay nhỏ bằng một lóng tay hay nhỏ hơn, là thứ thịt ba chỉ đã quay dòn, có đủ cả da (ăn dòn dòn), mỡ (ăn béo) và thịt (ăn mặn), phải bọc miếng thịt thật kín với bột lọc vì nếu xì ra, nước sẽ đục. Nước của thứ chè này phải trong mới ngon. Muốn làm cho ngon cũng khá công phu. Theo bà Tôn Thất Bình ở Huế, thì “nhụy của miếng “bột lọc bọc thịt quay” rất quan trọng. Bà dùng da heo quay rán hết mỡ, bẻ ra từng tí, rồi lấy nạc heo quay thái nhỏ, rim khô, trộn ít muối đường cho vừa miệng. Cộng thêm thập cẩm vào nhụy như nấm mèo, phù chúc, kim châm, cơm dừa tra (tức dừa già) bào nhỏ, rồi rim thật kỹ đến độ khô. “Chè bột lọc bọc thịt quay” theo cách này ăn mấy cũng còn thèm, một tuyệt kỹ của Huế đô.

9.3. Chè cá thu: Món “chè cá thu” là thứ chè đặc biệt của Huế hồi xưa, của dân quý phái ăn chơi sành điệu. “Chè cá thu và chè bọt lọc bọc thịt quay” thường có bán trên các tròng ngao bán đồ ăn trên sông Hương cho các khách làng chơi thuở trước, cách đây cũng chỉ mới vài chục năm mà thôi nhưng ngày nay thì lại ít nơi có bán thức ăn này (theo Bùi Minh Đức, “Từ điển Tiếng Huế”, NXB Văn Học 2009). Tuy nhiên, hiện nay (6/2010), tại khu ẩm thực Gia Hội, dọc theo bờ sông Hàng Đường, còn có một quán ăn chuyên bán thứ “chè bột lọc bọc thịt quay” này, nhưng nếu khách ăn chậm chân, đến sau 11 giờ trưa mỗi ngày, là món chè này đã hết sạch. Riêng về món “Chè cá thu” thì ngày nay chúng tôi cũng còn nghe nói đến nhưng chưa bao giờ được thấy mặt mũi ra sao, “Văn kỳ thanh, bất kiến kỳ hình”, nên không thể nào tả rõ ra đây để hầu chuyện với quý vị độc giả được và xin hẹn, nếu ngày nào biết rõ được, sẽ xin “trình làng” sau. Tuy nhiên vì là một món ăn xưa với cách chế biến quá công phu nên về sau, ít có người Huế nào chịu khó làm món “Chè cá thu” theo đúng tập tục xưa và vì thế ngày nay, món ăn đặc biệt Huế này có thể đã bị mất dấu vết rồi. Và nếu ngày nay còn có thứ chè này ở Huế thì chắc chắn phải vào trong các phủ đệ ở Huế vào ngày kỵ giỗ mới có thể thấy có món ăn này, do con cháu dòng dõi các vị quan lớn ngày xưa muốn trổ tài nấu ăn món Huế của mình để dọn ra hầu ông bà mình dùng cơm cúng kỵ theo kiểu ngày xa xưa.

10. Người Huế thích ăn thanh

Người Huế thích ăn những món “thanh tao” như món “Chè hột sen hồ Tịnh nấu với đường phèn” hoặc ăn “Chè nhỡn lồng bọc hột sen”. Sen “Hồ Tĩnh Tâm” là một thứ hạt sen rất ngon, rất bở ở Huế, chẳng khác gì các thứ hạt sen quý hiếm khác trên lăng các vua nhà Nguyễn.

10.1. Món Chè hột sen hồ Tịnh nấu với đường phèn: Hạt sen tươi vào mùa, mua đem về ngồi gọt vỏ, lột cả cái màng sen mỏng dính rồi xoi lấy tim ra. Sau đó, cho vào nấu và chỉ để lửa riu riu mà thôi. Trong khi nấu, họ thường phải dùng vá nhỏ múc bọt trên mặt ra để nước sen cho thật trong. Khi hột sen chín, họ mới cho đường phèn vào nồi nhưng họ tránh không cho đường phèn vào quá nhiều để chè không quá ngọt. Chè quá ngọt sẽ làm bớt vẻ thanh tao của thứ “chè hột sen Hồ Tịnh” này.

10.2. Món chè nhỡn lồng bọc hột sen: cũng là một món ăn thanh cảnh, một món ăn của Vua Chúa hồi xưa. Hột sen thường dùng cũng là thứ hột sen ngon nhất. Đó là thứ “hột sen hồ Tĩnh Tâm trong Thành Nội. Hột sen được gọt vỏ, xoi tim và bọc vào trong “tựa” của nguyên trái nhãn lồng Thành Nội (hay Đại Nội). Đó là những thứ nhãn lồng ngon và quý hiếm. Nước trái nhãn lồng chảy ra sau khi lột vỏ tỏa ra một mùi thơm phức, còn hơn cà mùi của “đường phèn chưng cách thủy”. Hột sen bọc nhãn lồng xong đem ra nấu chè bằng đường cát trắng hoặc bằng đường phèn là hai thứ đường “thanh tao” nhất. Cũng phải đun lửa riu riu mà thôi cho mùi vị của nhãn lồng hòa tan với mùi hột sen mới hái và cũng để cho hột sen bọc trong nhãn lồng không bị bung ra.

10.3. Món muối nung lò: Ngoài ra, ăn muối mặn, họ cũng thích ăn cho được thứ muối vừa mặn vừa thanh bằng cách cho muối sống vào trong các lò nung gạch hay lò nung đồ sứ với nhiệt độ rất cao. Nhiệt độ cao sẽ khử sạch Chlorure Kali và Iode thành hột muối trắng tinh. Nước trong muối sẽ bay hơi hết và hạt muối còn lại là thứ hạt muối mùi vị rất thanh mà nhiều người Huế rất thích ăn.

11. Người Huế thích ăn cho đẹp

Đồ ăn tuy nhiều, ngon và hợp với khẩu vị nhưng nếu dọn lên trên dĩa một cách hổ lốn thì chắc chắn người Huế nào cũng chê bai, xem là thứ đồ ăn không mấy hấp dẫn. Món đồ ăn ngon hợp khẩu vị còn phải là một món đồ ăn dọn lên trên mâm cơm một cách thanh cảnh. Dĩa thịt phay tuy là một món ăn ngon nhưng phải là dĩa thịt phay đã được sắp thứ lớp trên dĩa. Trên mặt dĩa thịt, người Huế còn trang điểm thêm một nắm ngò xanh và một trái ớt đỏ cho thêm phần hấp dẫn. Cũng vậy, dĩa rau sống của người Huế là cả một tác phẩm trang trí. Chuối xanh cắt lát để bên ngoài, bên trong là rau sống, ngay chính giữa là vài lát khế, vài lát vả và cũng thêm cả trái ớt đỏ để tô điểm thêm dĩa rau cho đẹp, một dĩa rau hầu như không có bao nhiêu năng lượng này. Nhưng người Huế ăn dĩa rau sống này lại thấy ngon, hợp với khẩu vị của họ. Có cả cái chua của khế, cái chát của vả, chuối non và cái mùi vị của các thứ rau sống cộng lại. Đó là một bản hòa tấu đầy nhạc điệu màu sắc. Nhìn các món ăn “dọn ra mâm” đã được người Huế sửa soạn trang điểm trước, chúng ta có cảm tưởng đó là những cô dâu đã được trang điểm trong ngày trọng đại, sẵn sàng chinh phục tất cả những người chung quanh mình. Và từ dĩa rau sống điển hình, ta thấy người Huế thích ăn “các thức ăn đẹp”, các thức ăn đã được trình bày vừa đẹp vừa gọn gàng, sắp đặt ngay ngắn, với màu sắc hài hòa dọn ra trên mâm ăn và đặt để ngay ngắn giữa bàn.

III. KẾT LUẬN

Đó là những khẩu vị ngày hôm nay của người Huế. Họ có nhiều đặc điểm về văn hóa ẩm thực, về khẩu vị mà trên các vùng của đất nước không nơi nào có. Gia tài “văn hóa ẩm thực” của họ cũng rất phong phú với những “khẩu vị khác người”. Các khẩu vị đó của họ đã kinh qua nhiều đời, phát triển và duy trì cho đến ngày hôm nay. Một gia tài “văn hóa ẩm thực” của xứ sở mà chắc chắn người Huế nào cũng trân trọng. 

B.M.Đ 
(268/06-11)








Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • LTS: Đại Học Huế đang ở tuổi 50, một tuổi đời còn ngắn ngủi so với các Đại học lớn của thế giới. Nhưng so với các Đại học trong nước, Đại Học Huế lại có tuổi sánh vai với các Đại học lớn của Việt như ở Hà Nội và TP Hồ Chí Minh. Trên hành trình phát triển của mình, Đại Học Huế đã góp phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế, giáo dục, văn hoá ở miền Trung, Tây Nguyên, đào tạo nguồn nhân lực trình độ cao cho khu vực và cả nước. Nhân dịp kỷ niệm này, TCSH phân công ông Bửu Nam, biên tập viên tạp chí, trao đổi và trò chuyện với PGS.TS. Nguyễn Văn Toàn, Giám đốc Đại Học Huế. Trân trọng giới thiệu với bạn đọc cuộc trò chuyện này.

  • VÕ ĐẮC KHÔICó một thời người Huế loay hoay đi vỡ núi, phá rừng trồng khoai sắn. Có một thời người Huế tìm cách mở cảng nước sâu để vươn ra biển lớn, hay đón những con tàu viễn xứ xa xôi. Cả nước, các tỉnh thành láng giềng như Quảng Bình, Quảng Trị, Đà Nẵng cũng đều ra sức làm như thế, sao ta có thể ngồi yên?

  • TRẦN ĐÌNH SƠNĐất Việt là cái nôi sinh trưởng của cây trà và người Việt biết dùng trà làm thức uống thông thường, lễ phẩm cúng tế, dâng tặng, ban thưởng từ hàng ngàn năm nay.

  • NGUYỄN XUÂN HOÀNGTừng là đất Kẻ Chợ – kinh đô triều Nguyễn xưa, ẩm thực Huế dựa trên nền tảng triết lý của cái đẹp, món ăn món uống phải ngon nhưng nhất thiết phải đẹp, vị phải đi với mỹ, thiếu mỹ thì không còn vị nữa.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTrong vô vàn những bài thơ viết về Huế, hai câu thơ của Phan Huyền Thư dễ làm chúng ta giật mình:Muốn thì thầm vuốt ve Huế thật khẽLại sợ chạm vào nơi nhạy cảm của cơ thể Việt Nam                                                                    (Huế)

  • FRED MARCHANT(*)                                                                                      Trong chuyến viếng thăm Huế lần thứ hai vào năm 1997, tôi làm một bài thơ đã đăng trong tập thứ hai của tôi, Thuyền đầy trăng (Full Moon Boat). Bối cảnh bài thơ là một địa điểm khảo cổ nổi danh ở Huế. Có thể nói là bài thơ này thực sự ra đời (dù lúc đó tôi không biết) khi nhà thơ Võ Quê đề nghị với tôi và các bạn trong đoàn ghé thăm Đàn Nam Giao trước khi đi ăn tối ở một quán ăn sau Hoàng Thành bên kia sông Hương.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNDu khách là người trong mắt nhìn và qua cảm nhận của chính người đó.

  • TRƯƠNG THỊ CÚCTừ buổi hồng hoang của lịch sử, hình ảnh ban đầu của xứ Huế chỉ thấp thoáng ẩn hiện qua mấy trang huyền sử của đất nước Trung Hoa cổ đại. Tài liệu thư tịch cổ của Trung Quốc đã kể lại từ năm Mậu Thân đời vua Đường Nghiêu (2353 năm trước Công nguyên), xứ Việt Thường ở phương Nam đã đến hiến tặng vua Nghiêu con rùa thần từng sống qua ngàn năm tuổi.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCó một hiện tượng lịch sử lý thú, ở những nơi khác vốn dĩ bình thường  nhưng ở Huế theo tôi là rất đặc biệt, đó là tại mảnh đất này sau hơn ba mươi năm ngày đất nước thống nhất, đã hình thành một thế hệ nữ doanh nhân thành đạt giữa chốn thương trường.

  • MINH TÂMTôi nghe bà con bán tôm ở chợ Bến Ngự kháo nhau: Dân nuôi tôm phá Tam Giang đã xây miếu thờ “Ông tổ nghề” của mình gần chục năm rồi. Nghe nói miếu thờ thiêng lắm, nên bà con suốt ngày hương khói, cả những người nuôi tôm ở tận Phú Lộc, dân buôn tôm ở Huế cũng lặn lội vượt Phá Tam Giang lễ bái tổ nghề.

  • PHẠM THỊ ANH NGA"Hiểu biết những người khác không chỉ đơn giản là một con đường có thể dẫn đến hiểu biết bản thân: nó là con đường duy nhất" (Tzvetan Todorov)

  • TRẦN ĐỨC ANH SƠNSau hơn 1,5 thế kỷ được các chúa Nguyễn chọn làm thủ phủ của Đàng Trong, đến cuối thế kỷ XVIII, Huế trở thành kinh đô vương triều Tây Sơn (1788 - 1801) và sau đó là kinh đô của vương triều Nguyễn (1802 - 1945).

  • TRƯƠNG THỊ CÚC Sông Hương là một trong những nét đẹp tiêu biểu của thiên nhiên xứ Huế. Sông là hợp lưu của hai nguồn Hữu Trạch, Tả Trạch, chảy qua vùng đá hoa cương cuồn cuộn ghềnh thác, đổ dốc từ độ cao 900 mét đầu nguồn Hữu trạch, 600 mét đầu nguồn Tả trạch, vượt 55 ghềnh thác của nguồn hữu, 14 ghềnh thác của nguồn tả, chảy qua nhiều vùng địa chất, uốn mình theo núi đồi trùng điệp của Trường Sơn để gặp nhau ở ngã ba Bàng Lãng, êm ả đi vào thành phố, hợp lưu với sông Bồ ở Ngã Ba Sình và dồn nước về phá Tam Giang, đổ ra cửa biển Thuận An.

  • Chúng ta biết rằng trong thời đại ngày nay, khi đầu tư xây dựng những cơ sở nhằm đáp ứng nhu cầu cao của người đi du lịch, văn hóa ẩm thực được xem như là cánh cửa đầu tiên được mở ra để thu hút du khách.

  • Chúng tôi đi thăm đầm chim Quảng Thái, theo ông Trần Giải, Phó chủ tịch huyện Quảng Điền.

  • I. Chúng tôi xin tạm hiểu như sau về văn hóa Huế. Đó là văn hóa Đại Việt vững bền ở Thăng Long và Đàng Ngoài chuyển vào Thuận Hóa - Phú Xuân.

  • Thúng mủng Bao La đem ra đựng bột. Chiếu Bình Định tốt lắm ai ơi. Tạm tiền mua lấy vài đôi. Dành khi hiếu sự trải côi giường Lào.

  • LTS: Tiến sĩ Nguyễn Thuyết Phong hiện đang dạy tại trường đại học Kent State thuộc tiểu bang Ohio, . Đây là một trong những bài trích ra từ cuốn Hồi ký âm nhạc, gồm những bài viết về kinh nghiệm bản thân cùng cảm tưởng trong suốt quá trình đi đó đây, lên núi xuống biển, từ Bắc chí Nam của ông để sưu tầm về nhạc dân tộc. Được sự đồng ý của tác giả, TCSH xin trân trọng giới thiệu cùng độc giả.

  • Từ sau ngày giải phóng đến nay, tôi chưa một lần gặp lại Anh hùng Vai và Anh hùng Kan Lịch. Về Huế hoài nhưng lên A Lưới lại không đủ giờ và không dễ dàng gì. Những năm trước, đường về A Lưới còn chật hẹp, lổm chổm đất đá, lại hay sạt lở... đi về rất khó khăn và phải mất vài ngày. Đến Huế vào mùa khô thì lại ít thời giờ. Về Huế dịp mùa mưa thì đường về A Lưới luôn tắc nghẽn.

  • Tế lễ, giỗ chạp, cúng kỵ gắn với người Huế rất sâu. Hình như nhạc lễ cổ truyền xứ Huế cũng hình thành từ đó. Món ăn Huế được chăm chút, gọt tỉa để trở thành một thứ nghệ thuật ẩm thực cũng từ đó. Màu sắc, mẫu mã của nhiều loại trang phục Huế cũng từ đó mà được hoàn chỉnh, nâng cao. Cả những phong cách sinh hoạt nói năng, thưa gởi, đứng ngồi, mời trà, rót rượu... đầy ý tứ của vùng đất nầy cũng đi từ những buổi cúng giỗ đượm mùi hương trầm.