NGUYỄN THỊ BÍCH HẢI
Thiên tài nghệ thuật của Nguyễn Du được biểu hiện ở nhiều phương diện. Chẳng hạn như năng lực phát hiện vấn đề, phát hiện những nghịch lý, năng lực cảm thông với những nỗi khổ đau của con người, tài năng cấu tứ, tài năng sử dụng ngôn ngữ, thánh thơ lục bát,…
“Nguyễn Du - Đại thi hào dân tộc Việt Nam” tranh sơn dầu của họa sĩ Lê Anh Tuấn - Ảnh: Internet
Trong tài năng nhiều mặt ấy, có một biệt tài: Khái quát nghệ thuật.
Khái quát nghệ thuật nói đến ở đây chỉ những mệnh đề (hay “ngữ”) khái quát về nhân sinh, thế sự (nhân thế) về nghệ thuật, về tâm linh… được phát ra một cách tự nhiên từ hình tượng nghệ thuật bằng hình tượng nghệ thuật - chứ không phải từ lý thuyết triết học, đạo đức hay tôn giáo… Chúng là những “phân tử đánh dấu” định hướng cho quá trình đến với thế giới nghệ thuật thơ Nguyễn Du.
Những mệnh đề khái quát này xuất hiện rất nhiều, chiếm tỷ lệ cao trong sáng tác của Nguyễn Du. Để cuối cùng toàn bộ sáng tác của ông trở thành một khái quát bằng nghệ thuật về “Những điều trông thấy mà đau đớn lòng”.
Tri nhận trực giác đã được kiểm chứng qua thao tác thống kê tương đối kỹ. (Nói “tương đối” là do tiêu chí để gọi là “khái quát” ít nhiều mang tính chủ quan).
Qua khảo sát ba thành tựu sáng tác chính của Nguyễn Du, tức thơ chữ Hán, Truyện Kiều, Văn chiêu hồn (trong Nguyễn Du toàn tập, 2 tập do Mai Quốc Liên và Nguyễn Quảng Tuân biên khảo, Nxb. Văn học và Trung tâm nghiên cứu quốc học 1996; có tham chiếu một số tài liệu liên quan), chúng tôi nhận thấy trong hơn 5000 câu thơ có 98 mệnh đề (ngữ) mang tính khái quát. (Cái gọi là “ngữ khái quát” này thường gọn trong một câu thơ, có trường hợp hơn một câu).
Cụ thể: Trong thơ chữ Hán có 45
Trong Truyện Kiều có 31
Trong Văn chiêu hồn có 22
Như vậy có thể thấy tỷ lệ khái quát trong Truyện Kiều là thấp nhất, trong Văn chiêu hồn là cao nhất.
Điều này phù hợp với đặc trưng thể loại của các tác phẩm - Truyện Kiều thuộc loại tự sự. Thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn thuộc loại trữ tình, riêng Văn chiêu hồn là một bài thơ trữ tình đặc biệt (chiêu hồn) lại thuộc thể song thất lục bát - thể thơ trữ tình chuyên biệt của dân tộc.
Như vậy, nhìn tổng thể, tỷ lệ khái quát trong thơ Nguyễn Du rất cao, các nhà thơ xưa nay ít ai đạt được.
Khái quát nghệ thuật của Nguyễn Du có thể quy về những chủ đề:
1. Nhân sinh - thế sự (nhân thế): 55
2. Văn chương - nghệ thuật: 18
3. Tôn giáo: 16
4. Trời đất: 6
5. Quốc gia: 3
Trong đó ba chủ đề chính là nhân thế, văn chương - nghệ thuật và tôn giáo - tâm linh. Có thể thấy Nguyễn Du chủ yếu nói về nhân sinh - thế sự, ít nói về quốc gia.
Chỉ duy nhất một lần ông nói đến “ơn vua”:
“Quân ân tự hải hào vô báo”
(Ơn vua tựa biển chưa hề báo)
(Nam Quan đạo trung)
Đành rằng lòng biết ơn không nhất thiết phải nhiều lời, nhưng quả thực với Nguyễn Du cái việc làm quan với nhà Nguyễn cũng là sự bất đắc dĩ và có thể có phần “tùy duyên”.
Có thể thấy, trong thơ, Nguyễn Du hầu như chẳng mấy quan tâm đến quốc gia đại sự mặc dù ông đang làm quan và đang đảm nhận trọng trách làm chánh sứ.
Quả là vua Gia Long có “biệt nhãn” mà cử Nguyễn Du làm chánh sứ đi Trung Quốc để rồi trong thế giới nghệ thuật thơ ông có Bắc hành tạp lục với 120 bài thơ (sáng tác trong vòng 1 năm), nhiều hơn cả Thanh Hiên thi tập và Nam trung tạp ngâm (sáng tác trong vòng 27 năm) cộng lại; và có thể là cũng nhờ vậy mà có được Đoạn trường tân thanh vì hẳn là Truyện Kiều được viết sau chuyến “Bắc hành”.
Chuyến “Bắc hành” gồm 120 bài thơ “tạp lục” về những người những cảnh, những danh thắng cổ tích dọc đường đi, trong đó chủ yếu là “nghiêng lòng” (khuynh tâm) về những nhân vật có cống hiến thân tâm cho văn hóa (đáng tiếc là Nguyễn Du hầu như không nói gì về các “danh nhân đất Việt” - hiện tượng này cũng thường thấy ở không ít tác gia văn học Việt Nam trung đại. Đành rằng không thể đòi hỏi sự “hoàn thiện”, nhưng quả là đáng tiếc. Điều này sẽ được hậu thế bổ sung). Với ông việc làm quan, phụng mệnh vua đi sứ chả có gì nên thơ.
Trong một năm “phụng sứ”, có một lần ông “vui”:
“Hỉ trị thánh triều công phú đảo,
Vãng lai đài hạ tạp Hoa Di.”
(Vui được thánh triều che chở khắp,
Dưới đài hỗn tạp khách Hoa Di)
(Quản Trọng Tam Quy đài)
Chữ “hỉ” ở đây ngụ ý mỉa mai. Khổng Tử từng nói: nếu không có Quản Trọng “nhất khuông thiên hạ” thì người Hoa Hạ đã phải mặc áo, để tóc theo phong tục của người Di, Địch.
Vậy đó - niềm vui bị triệt tiêu. Chủ thể trữ tình tự bạch “ngã sầu đa mộng” (ta nhiều sầu mộng) (Ngẫu đề).
Những chữ “lân, sầu, thương, bi, ai, oán, hận,… đau, buồn, xót xa…” xuất hiện với tần số rất cao trong thơ Nguyễn Du.
Tố Như là một khối sầu thương
Thơ Tố Như là tiếng đoạn trường.
Nỗi sầu thương, “tiếng đoạn trường” ấy Nguyễn Du dành cho nhân sinh thế sự và văn chương về nhân sinh thế sự, ngay cả tôn giáo cũng trĩu nặng nỗi niềm nhân thế.
Chính ông đã nói:
“Mộng hồn dạ nhập Thiếu Lăng thi”
(Y nguyện vận ký Thanh Oai Ngô Tứ Nguyên)
“Người làm sao chiêm bao làm vậy” (tục ngữ) - Khổng tử mơ thấy Chu Công, Trang tử mộng hóa bướm, Tố Như tử thì “Đêm đêm mộng hồn vào cõi thơ Đỗ Phủ”. Thơ Đỗ Phủ đau nỗi niềm nhân thế, đó chính là cõi thơ “thanh khí” với “tiếng đoạn trường” của Tố Như, khiến ông “bình sinh bội phục” “bậc thầy nghìn thuở’ ấy.
Khái quát về nỗi buồn đau nhân thế chiếm quá nửa trong những khái quát nghệ thuật của Nguyễn Du và hẳn là đều được người đọc “tâm phục”.
Chẳng hạn:
“Nhân đáo cùng đồ vô hảo mộng”
(Người đến đường cùng không mộng đẹp)
(Trệ khách)
Hoặc:
“Trần thế bách niên khai nhãn mộng”
(Trần thế trăm năm mơ mở mắt)
(La Phù giang thủy các độc tọa)
Tuyệt vời là hình tượng “giấc mơ mở mắt” (khai nhãn mộng). Có lẽ Nguyễn Du là người đầu tiên đem vào cõi thơ hình tượng này.
Sau cuộc “độc tọa” (trong Thanh Hiên thi tập, khoảng cuối thế kỷ XVIII) để chiêm nghiệm cõi “khai nhãn mộng’ này của Tố Như khoảng một thế kỷ, các nhà phân tâm học Tây Âu có nói đến hiện tượng “giấc mơ tỉnh thức” (hoặc “giấc mơ mở mắt”) để chỉ một hiện tượng tâm lý đoản tạm, không phải cuộc “khai nhãn mộng” suốt trăm năm “nhân thế” như Thanh Hiên đã khái quát bằng thơ. Cuộc “Khai nhãn mộng” này lại là của một thi nhân “cùng đồ vô hảo mộng”.
Lại chẳng hạn như:
“Cổ kim hận sự thiên nan vấn”
(Nỗi hận xưa nay khó hỏi trời)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Có hỏi e rằng “trời” cũng bí. Bí vì quá nhiều câu hỏi. Có một chữ xuất hiện với tần số cao trong sáng tác của Nguyễn Du: chữ “hà?”. “Hà” là một từ nghi vấn; tùy theo ngữ cảnh và từ mà nó kết hợp, “hà” có thể tương đương với: ai? gì? sao? đâu? nào? Trong thơ chữ Hán có 63 chữ “hà?”, trong Văn chiêu hồn có 30 và trong Truyện Kiều có đến 219 chữ “ai? gì? sao? đâu? nào?”. Đó là chưa kể những từ nghi vấn khác (chăng? chưa?... chẳng hạn). Sao mà nhiều câu hỏi, nhiều nghi vấn thế? Xem ra cũng “khó hỏi trời”. Chỉ biết rằng tâm hồn Tố Như quá quan hoài, quá nhiều câu hỏi về nỗi hận, nỗi thảm, nỗi đau… nhân thế.
Vận vào mình, ông thấy:
“Phong vận kỳ oan ngã tự cư”
(Ta cũng ở trong nỗi oan phong vận)
(Độc Tiểu Thanh ký)
Nguyễn Du, cũng như nàng Kiều, thường “Mỗi lời là một vận vào…” và tạo nên hiệu ứng “vận vào” khi người ta đến với thơ ông, mà “lẩy Kiều” là một biểu hiện.
Biết làm sao được khi mà nhà thơ thể nghiệm một cách sâu sắc cảnh ngộ:
“Thiên giáng kỳ tài vô dụng xứ”
(Trời ban tài lạ đành vô dụng)
(Trường Sa Giả thái phó)
Hẳn không chỉ Nguyễn Du thở dài vì cái lẽ “Có tài mà cậy chi tài” ấy. Thật ngậm ngùi với câu thơ của Phạm Quý Thích:
“Nhất phiến tài tình thiên cổ lụy”
(Một mảnh tài tình ngàn thuở lụy)
(Đề từ)
Câu thơ nói về Kiều mà cũng là nói về Nguyễn Du, về những ai đã “trót” được (hay bị?) “trời ban tài lạ”.
Về văn chương - nghệ thuật, Nguyễn Du cũng có những khái quát “kinh nhân” (kinh động lòng người - lời thơ Đỗ Phủ).
Trong văn học cổ Đông Á, người Trung Quốc xưa đã có quan điểm mỹ học “dĩ bi vi mỹ” (lấy buồn làm đẹp - phải buồn mới được coi là đẹp), với người Nhật Bản “mono no aware” (vật chi ai - nỗi buồn của sự vật hay “niềm bi cảm”) là cảm thức thẩm mỹ cơ bản, đến nỗi trong “Truyện Genji” “aware” - “niềm bi cảm” xuất hiện cả ngàn lần. Nguyễn Du thì khái quát theo cách riêng:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Vừa nêu hình tượng vừa lý giải căn nguyên - sự giao cảm giữa nội tâm với ngoại cảnh.
Trong “tâm nhãn” của Nguyễn Du :
“Thi thành thảo thụ giai thiên cổ”
(Thành thơ cây cỏ hóa ngàn năm)
(Hán Dương vãn diểu)
Cỏ thơm trên “bãi xa Anh Vũ”, hàng cây bên sông Hán Dương đã vào thơ Thôi Hiệu thế là ngàn năm sau vẫn tươi xanh dẫu người thơ cũng như hạc vàng đã “một đi không trở lại”.
Thì chẳng phải “cành mai đêm trước” của Mãn Giác thiền sư, “lửa lựu lập lòe” trong Truyện Kiều… hình tượng thiên nhiên thành thơ là thành bất tử đó sao? Nguyễn Du đã khái quát giá trị trường tồn, bất tử của thi ca, của nghệ thuật bằng một hình tượng nghệ thuật đầy sức thuyết phục và đẹp đến nao lòng. Câu thơ này của Nguyễn Du cũng thành “thiên cổ”.
Người ta kể: có một họa sĩ nói với thiếu nữ trong tranh rằng: “Thượng đế đã tạo ra nàng và nàng sẽ chết, ta tạo ra nàng và nàng sống mãi”. Hay! Đó cũng là một cách diễn đạt thuyết phục về sự “sống mãi” của nghệ thuật, hình tượng “thi thành thảo thụ giai thiên cổ” thì thật đẹp một cách giản dị tự nhiên lại dễ “thuộc nằm lòng”, “khẩu phục, tâm phục”; nó ở trong bài “Hán Dương vãn diểu” như “thi nhãn” (mắt thơ) long lanh lại có thể, bất giác, được rút ra để sống độc lập khi người ta chứng kiến sự bất tử của nghệ thuật.
Thơ bất tử nhưng người thơ thì… oái oăm thay:
“Thi nhân đa bạc mệnh”
(Thi nhân thường bạc mệnh)
(Bạch Cư Dị - Lý Bạch mộ(1))
Với cuộc đời gian truân luân lạc, với tâm hồn “đa sầu mộng”, Tố Như thâm cảm nghịch lý ấy và ngậm ngùi nhận thấy:
“Văn chương quang diễm thành hà dụng”
(Văn chương sáng chói có ích gì)
(Lỗi Dương Đỗ Thiếu Lăng mộ)
Vận vào mình, ông thấy:
“Nhất sinh từ phú tri vô ích”
(Một đời từ phú biết vô ích)
(Mạn hứng)
Chẳng những “vô ích” mà thậm chí còn:
“Bách niên cùng tử văn chương lý”
(Trăm năm nghèo xác cõi văn chương)
(Mạn hứng)
Và khuyến cáo người đời:
“Văn chương đã chắc đâu mà trí thân”
(Văn chiêu hồn)
Nếu có chắc thì chắc là “nghèo xác” (!) rồi nữa hóa “cô hồn”.
“Khi thường” đã thế, huống chi “khi biến”, nhất là:
“Buổi chiến trận mạng người như rác”
(Văn chiêu hồn)
Bởi ở đời không thiếu cái sự thực tàn nhẫn:
“Dãi thây trăm họ làm công một người”
(Văn Chiêu hồn)
Câu thơ này có thể coi là “chuyển ý” (không phải là “chuyển ngữ”) câu thơ:
“Nhất tướng công thành vạn cốt khô”
(Một tướng công thành khô vạn xương)
(Tào Tùng - Kỷ hợi tuế)
Nhưng, nói “nhất tướng công thành” khiến người ta nghĩ “vạn cốt khô” là của binh lính; Nguyễn Du thì nói “Dãi thây trăm họ”, “trăm họ” - “bách tính” là từ chỉ chung nhân dân (tất nhiên gồm cả binh lính). Câu thơ của Tào Tùng đã khái quát đến kinh người, mà tính phổ quát trong câu thơ “chiêu hồn” của Nguyễn Du còn “cánh thướng nhất tằng” (lên thêm một tầng) cao và rộng.
Lại huống chi trong vòng mười mấy năm (từ 1786 đến 1802) công tử Nguyễn Du đã chìm nổi trong “cuộc bể dâu”, chẳng những “một phen” mà đến mấy phen “thay đổi sơn hà” (Văn chiêu hồn), với cảnh ngộ “mảnh thân chiếc lá”, bạc mệnh lắm và cô đơn lắm.
Như đã nói, những “ngữ” khái quát chiếm tỷ lệ thấp nhất trong Truyện Kiều, vì đây là một tác phẩm tự sự. Nhưng nói “thấp” là so với trong thơ chữ Hán và Văn chiêu hồn, những tác phẩm trữ tình, chứ bản thân Truyện Kiều có nhiều câu khái quát chấn động lòng người, kết tinh tâm sự Nguyễn Du. Truyện Kiều là một “tổng khái quát” vì Kiều là một hình tượng kết tập nỗi đau nhân thế. Đặc biệt, Nguyễn Du đã đặt cho đứa con tinh thần của mình cái tên Đoạn trường tân thanh - Tiếng kêu đứt ruột mới. Thế có nghĩa là: Những sáng tác trước tác phẩm này đều là “đoạn trường thanh”.
Cho nên có thể nói rằng Nguyễn Du đã đem niềm cảm thương, nỗi đoạn trường của mình phổ vào Kim Vân Kiều truyện, “mượn” cốt truyện từ một bộ tiểu thuyết “tài tử giai nhân” mà viết nên một khúc “đoạn trường tân thanh” để cùng toàn bộ tác phẩm của ông trở thành một bản giao hưởng “đoạn trường thanh” mà Truyện Kiều là cao trào.
Từ nhân thế, “cõi người” đầy dâu bể, từ những “lời chung” về “cái điều bạc mệnh” về nỗi đoạn trường đến những nỗi niềm rất đỗi riêng tư (mà vì “rất riêng tư”, nên lại là “ai ai cũng…”)… trừu xuất được rất nhiều cảm nghiệm tâm tình và triết lý chung cho cõi người, cho nghệ thuật như thế.
“… phi nhãn phù lục hợp, tâm quán thiên thu vị tất hữu thử bút lực dã…” (… Nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy…” - chuyển dẫn từ Nguyễn Du toàn tập, tập 2, trang 41).
Lời tri âm ấy của Mộng Liên Đường chủ nhân nói về Nguyễn Du khi viết Truyện Kiều cũng có thể nói về toàn bộ sáng tác của Nguyễn Du.
Cách nói ấy cũng cho hay Mộng Liên Đường chủ nhân cảm thấy Nguyễn Du nhìn “thiên thu lục hợp” bằng “pháp nhãn”, bằng “tuệ tâm” của Phật giáo.
Không đạo mạo như Khổng Tử, không “hư - tĩnh” như Lão Đam, không “ngông” như Trang Chu, cũng không đau đáu chữ “cương thường” như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du “biết thân chạy chẳng khỏi trời”, “đã không biết sống là vui”, đành ôm một nỗi đoạn trường mà lăn lóc trong “ta bà thế giới”, đem tấm lòng cảm thông và xót thương vô hạn (từ bi tâm) mà định hướng cho đôi mắt chú mục vào mọi kiếp nhân sinh trong “bể khổ”, khiến cho toàn bộ sáng tác của ông trở thành bản giao hưởng “đoạn trường thanh”. Phải chăng ngọn bút của ông còn được sự khơi gợi thầm thì từ “tàng thức” thẳm sâu.
Bế tắc đến độ thấy đời chỉ là “giấc mơ mở mắt”, đến độ “khó hỏi trời”, Nguyễn Du tìm đến với Phật giáo bằng tấm lòng chân thành, đến độ:
“Ta đọc kinh Kim Cương hơn ngàn lần”
(“Ngã độc Kim Cương thiên biến linh”)
(Chiêu Minh thái tử phân kinh thạch đài)
và khẳng định:
“Thử tâm thường định bất ly thiền”
(Lòng này luôn định chẳng rời thiền)
(Đề Nhị Thanh động)
Nhưng rốt cuộc Nguyễn Du không “chứng thiền”. Yếu chỉ của thiền định là “quán vô thường” và “quán vô ngã”; Nguyễn Du “quán vô thường” ở mức thấy “Trần thế bách niên khai nhãn mộng” nhưng không thể “quán vô ngã”! Ông “khư khư mình buộc lấy mình vào trong” “ngã chấp” làm một “con người cá nhân” “không tiền” và có lẽ cũng “khoáng hậu” trong văn học.
Qua tác phẩm có thể thấy tư tưởng Phật giáo trong Nguyễn Du ít nhiều tự mâu thuẫn. Nho giáo ở ông cũng vậy.
Lại mâu thuẫn và dung thông giữa Nho và Phật. Mở đầu Truyện Kiều ông nói “Chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau”. “Mệnh” là rất đáng sợ. Nỗi sợ đầu tiên của Khổng Tử là sợ “mệnh trời”. Đến cuối tác phẩm ông lại khẳng định:
“Thiện căn ở tại lòng ta
Chữ tâm kia mới bằng ba chữ tài”
Có “thiện căn”, có “bản thiện” (Mạnh Tử) tại lòng thì “tâm” có thể quán thông “tam tài”.
Ông hy vọng đem chữ “tâm” theo tinh thần Phật giáo để hóa giải xung đột giữa “tài” và “mệnh”.
Địa Tạng Bồ tát từng phát nguyện: “Chừng nào còn một sinh linh đau khổ trong địa ngục, chừng ấy ta chưa nhập Niết bàn.” Chúng sinh chừng nào mới hết khổ đau đây? Đến với “Văn Chiêu hồn”, “cái ngã” lánh ẩn, để tấm “lòng… thiết tha” lên tiếng “chiêu hồn thập loại chúng sinh”. Ông đã “lấy Phật làm lòng” và “lạc đạo” ngay giữa cõi đời.
Những khái quát nghệ thuật trong sáng tác của Nguyễn Du cho thấy được quá trình “đắc đạo văn chương” của ông. Với Tố Như, con người, cuộc đời mới là cứu cánh (mục đích) chứ không phải bất cứ thứ “giáo” nào. Nếu có thì đó là tôn giáo của con người - nhân đạo.
*
“Nhân” và “duyên” nào đã chung đúc nên biệt tài này cùng với thiên tài Nguyễn Du?
Điều này kể cũng khó vì phong phú và vi diệu quá.
“Nhân” (chủng tử - nhân tố bên trong) phải chăng là tấm lòng cảm - thương (từ - bi) và “tuệ nghiệp” của chủ thể trữ tình? Nguyễn Du đã từng:
“Nhất chú đàn hương tiêu tuệ nghiệp”
(Một nén hương thơm trừ tuệ nghiệp)
(Vọng Quan Âm miếu)
Nhưng rốt cuộc không “trừ” được, cũng may mà không “trừ’ được mới để lại “Tiếng thơ… động đất trời” (Tố Hữu). Và phải chăng “nhân” còn là cái “gen”/gien nhân hậu và cái “gen” thi cảm di truyền từ mạch nguồn truyền thống dân tộc và uyên nguyên gia học họ Nguyễn Tiên Điền?
“Duyên” (hoàn cảnh, tác nhân khách quan) phải chăng là cảnh ngộ côi cút từ tấm bé để rồi có thể nói suốt đời cứ phải “cúi đầu luồn xuống mái nhà”, không những khi “lữ ngụ” ăn nhờ ở đậu mà cả ở giai đoạn cuối đời hoạn lộ khá hanh thông; đặc biệt là sự chứng kiến cuộc bể dâu mấy phen “thay đổi sơn hà”, “mảnh thân” nào cũng chỉ là “chiếc lá”? Lại nữa Nguyễn Du còn kế thừa những bậc thầy trong thi ca cổ điển Trung Quốc, và tiếp bút những bậc tài hoa đi trước khá gần gũi như Đặng Trần Côn - Đoàn Thị Điểm - Phan Huy Ích, Nguyễn Gia Thiều… và Nguyễn Du lại tiếp nhận sâu sắc tuệ tâm Phật giáo, truyền thống nhân đạo, truyền thống truyện thơ Đông Nam Á, mà truyện thơ Việt Nam cũng ở trong phả hệ để rồi Tố Như đã thực hiện cuộc gặp gỡ ngoạn mục của hai truyền thống văn chương Đông Nam Á và Đông Á bằng một “Đoạn trường tân thanh”. Nhân duyên hội hợp mới chung đúc thành “quả”.
Mặc cảm cô đơn - bạc mệnh của “con người cá nhân” này kết hợp với tấm lòng cảm - thương nhân thế mà thăng hoa thành bản giao hưởng “Đoạn trường thanh”, tiếng thương vang vọng mãi trong tâm hồn Việt.
Xuân Diệu từng nói:
“Nguyễn Du kỳ diệu vô cùng
Ta đi đi mãi không cùng Nguyễn Du”
Nguyễn Du vô cùng như… trái tim.
Được làm và làm được con người cũng là điều hạnh phúc!
Nguyễn Du, là thánh thơ của dân tộc, là danh nhân văn hóa của nhân loại. Đó là điều đại hạnh của thi nhân. Chúng ta không phải “khấp Tố Như” mà mừng cho người, cũng mừng cho hậu thế chúng ta được trân trọng một con người có tấm lòng cảm và thương vô hạn - vô lượng từ bi, một con người đã gửi lại cho đời một chữ TÂM.
N.T.B.H
(TCSH331/09-2016)
-------------------
(1) Mộ Lý Bạch ở bên sông Thái Thạch. Bài thơ này có sách ghi là “Thái Thạch mộ”.
PHẠM PHÚ PHONG(Nhân đọc Hai mươi nhà văn, nhà văn hoá Việt thế kỷ XX)
Cuộc đấu tranh chống tiêu cực đang là một mặt trận nóng bỏng trong cuộc sống hiện nay và việc viết về “đề tài chống tiêu cực” đang là vấn đề thời sự được không ít người viết, bạn đọc cũng như các cơ quan chỉ đạo văn nghệ quan tâm.
ĐỖ QUYÊNVài năm nay, người Việt ở khắp nơi, trong và cả ngoài văn giới, tranh luận rất nhiều về trào lưu Hậu hiện đại (Postmodernism) như một nan đề. Dù đồng ý hay không đồng ý với nó, ai cũng mong muốn cần đổi mới trong xu hướng văn chương của Việt Nam và mang tinh thần thế giới.
(Note sur les cendres des Tây Sơn dans la prison du Khám Đường, par Nguyễn Đình Hòe, B.A.V.H. 1914 p. 145-146)
INRASARA1. Lạm phát thơ, ra ngõ gặp nhà thơ, người người làm thơ nhà nhà làm thơ, thơ nhiều nhưng nhà thơ không có bao nhiêu… Đã thấy khắp nơi mọi người kêu như thế, từ hơn chục năm qua(1). Kêu, và bắt chước nhau kêu. Kêu, như thể một phát âm rỗng, vô nghĩa, hết cả sức nặng. Từ đó tạo thành thói quen kêu, nhàm và nhảm.
TÔ NHUẬN VỸ(Nhân hội thảo con đường văn học Việt Nam vào Hoa Kỳ tổ chức tại Hà Nội từ 31/5 đến 3/6)
KHÁNH PHƯƠNGMột năm, trong tiến trình văn học, thường không có ý nghĩa đặc biệt nếu không nén chặt các sự kiện nghề nghiệp quan trọng, mà không phải năm nào cũng có được duyên may đó.
(Tường thuật từ Hội thảo “Thơ đến từ đâu” ở Tạp chí Sông Hương)
LÊ XUÂN VIỆTHơn bảy năm qua, kể từ ngày Bình Trị Thiên hợp nhất tỉnh. Trong thời gian ấy, hiện thực cách mạng đã diễn ra trên mảnh đất anh hùng này thật sôi động, lớn lao. Văn xuôi Bình Trị Thiên đã góp phần cùng với các loại hình văn học nghệ thuật khác phản ánh hiện thực đó, tạo nên món ăn tinh thần quý giá động viên, cổ vũ nhân dân xây dựng cuộc sống mới. Để thấy rõ hơn diện mạo của văn xuôi, chúng ta thử nhìn lại sự phát triển của nó.
HOÀNG PHỦ NGỌC TƯỜNGCó một người bạn cùng nghề, cùng lứa, một nhà văn viết truyện ngắn mà tên tuổi không xa lạ lắm đối với bạn đọc, có lần đã tâm sự với tôi như thế nầy: “Tôi không bao giờ muốn viết bút ký. Dẫu có những cái nó là thực đến một trăm phần trăm, nó là ký rõ ràng, thì tôi vẫn cứ uốn nắn nó lại đôi chút để thành truyện ngắn”.
NGUYỄN THỊ KIM TIẾNTiểu thuyết lịch sử là một loại hình tiểu thuyết viết về đề tài lịch sử. Khác với các xu hướng tiểu thuyết khác ở đối tượng và cách tiếp cận hiện thực đời sống, tiểu thuyết lịch sử đã đưa đến một cách lý giải con người dựa trên cơ sở vừa lấy lịch sử làm “đinh treo” vừa tận dụng kết hợp những đặc trưng thuộc về thể loại tiểu thuyết, mang lại một kiểu tư duy văn học trong tiểu thuyết lịch sử nói riêng nhiều phương diện mới mẻ.
HOÀNG THỊ QUỲNH ANHTrương Đăng Dung dạo vườn thơ khi mới ngoài 20 tuổi, lúc đang còn là một sinh viên du học ở nước ngoài. Năm 1978, ông đã trình làng bài thơ “Âm hưởng mùa hè” trên báo Văn nghệ. Nhưng rồi công việc nghiên cứu và dịch thuật văn học khiến ông neo thơ vào lòng, ấp ủ bấy lâu nay.
TRẦN ĐÌNH SỬ“Cốt truyện” là thuật ngữ quen dùng trong nghiên cứu văn học Việt Nam, chỉ một đặc điểm của tác phẩm tự sự có từ lâu đời, được dịch từ tiếng Nga siuzhet, tiếng Anh plot, tiếng Pháp sujet.
ĐỖ LAI THÚY1. Ở ta không biết tự bao giờ, trong số đông, đã hình thành một hệ giá trị: lý luận là nhất, nghiên cứu thứ hai, còn phê bình thì đứng đội bảng. Bởi thế mở nghiệp bằng phê bình và dựng nghiệp bằng nghiên cứu là đại lộ quen thuộc của nhiều người.
NGUYỄN DƯƠNG CÔNThể loại tiểu thuyết đã ra đời và có lịch sử vận động khá lâu dài. Ít nhất, ở châu Âu, thể loại này đã có từ gần năm thế kỷ.
CHƯƠNG THÂUNói về sự nghiệp đấu tranh bảo vệ tổ quốc, chúng ta dễ dàng ghi nhận những thành tích của giáo dân, đặc biệt của các nhân sĩ trí thức, anh hùng liệt sĩ “kính Chúa yêu nước”.
Viện sĩ A-lếch-xan-đơ Đa-ni-lô-vích A- lếch- xan- đrốp là một nhà toán học lỗi lạc, đã bảo vệ thành công luận án tiến sĩ khi ông mới 24 tuổi, sau đó nhiều năm giữ cương vị hiệu trưởng trường Đại học tổng hợp Lê- nin- grát. Ngoài toán học ra, ông còn quan tâm tới nhiều lãnh vực khoa học khác như đạo đức học, triết học, khoa học... Viện sĩ ưa thích làm thơ, và điều đặc biệt thú vị là ở tuổi 70, ông đã leo lên tới một trong những đỉnh núi của dải Thiên Sơn hùng vĩ... Sau đây là cuộc trao đổi giữa viện sĩ và phóng viên tờ “Nước Nga Xô viết”
LGT: Sau hơn chục năm nghiên cứu kết hợp với nhiều chuyến điền dã, ông Lê Quang Thái đã ghi chép lại Vè thất thủ Kinh đô (kể cả dị bản) trên cơ sở chú giải tỉ mỉ và cặn kẽ nhằm mở ra cho độc giả một cái nhìn bao quát về bối cảnh Kinh đô Huế ngày thất thủ và những năm tháng kế tục.Trân trọng tâm huyết và công lao của tác giả, Sông Hương xin giới thiệu tới bạn đọc một chương khá quan trọng trong công trình kể trên của ông Lê Quang Thái, hiện công tác tại Trung tâm Liễu quán Huế.S.H
LƯU KHÁNH THƠ“Hàng năm cứ vào cuối thu lá ngoài đường rụng nhiều và trên không có những đám mây bàng bạc, lòng tôi lại náo nức những kỷ niệm mơn man của buổi tựu trường... Buổi mai hôm ấy, một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, mẹ âu yếm nắm tay tôi dẫn đi trên con đường làng dài và hẹp”.
NGUYỄN TRỌNG TẠO(Nhân đọc một bài viết của Lê Quý Kỳ)