Khái niệm trống và mái trong âm nhạc truyền thống Huế

15:11 16/07/2020

PHAN THUẬN THẢO   

Các khái niệm trống mái là một biểu tượng của cặp phạm trù âm - dương đã được sử dụng trong âm nhạc truyền thống Huế. Cũng như cặp phạm trù âm - dương, trống mái thể hiện hai mặt đực và cái, sáng và tối, cương và nhu… đối lập.

Ảnh: internet

Cặp phạm trù này được tìm thấy dấu vết trong âm nhạc cổ truyền Huế với các khái niệm lớp trống, lớp mái, câu trống, câu mái, sáp trống, sáp mái. Trong đa số trường hợp, khái niệm trống thuộc dương, được hát với các cao độ cao hơn so với mái thuộc âm. Bài viết này đưa ra các trường hợp cụ thể để chứng minh các khái niệm trống, mái được sử dụng như thế nào trong âm nhạc truyền thống Huế hiện còn bảo tồn đến ngày nay.

*

Trong văn hóa của người Á Đông, cặp phạm trù âm - dương vốn rất phổ biến và đã được sử dụng rộng rãi trong nhiều lĩnh vực văn hóa nghệ thuật, đặc biệt là trong triết học. Riêng trong lĩnh vực âm nhạc, người Việt xưa cũng đã sử dụng cặp phạm trù này dưới biểu hiện tên gọi trống - mái để nói đến mối quan hệ về cao độ trong âm nhạc. Bài viết này giới thiệu cách dùng và ý nghĩa của các khái niệm trống mái trong âm nhạc cổ truyền Việt Nam, cụ thể là trong âm nhạc truyền thống Huế.

Cặp phạm trù âm - dương này được tìm thấy dấu vết trong âm nhạc cổ truyền Huế với các khái niệm lớp trống, lớp mái, câu trống, câu mái, sáp trống, sáp mái mà chúng tôi nghe được, học được qua quá trình tiếp xúc với các nghệ nhân.

Về mặt giới thuyết, các khái niệm lớp, câu sáp liên quan đến khúc thức, cấu trúc của các bài bản âm nhạc cổ truyền Việt Nam nói chung và Huế nói riêng. Chúng đã được người xưa sử dụng và được đề cập trong một số sách chuyên khảo. Cần nói thêm rằng các khái niệm này được dùng không thống nhất giữa các vùng miền và giữa các thể loại âm nhạc khác nhau ở Việt Nam1. Vì thế, trong bài viết này, chúng tôi chỉ xin đề cập đến cách dùng, cách hiểu các thuật ngữ này trong phạm vi âm nhạc truyền thống Huế liên quan đến khái niệm trống, mái mà bài viết quan tâm.

1. Trống - mái trong dân ca Huế: bài Lý tử vi

Lý tử vi (còn gọi là Lý huê tình, Lý trăm huê) là một bài bản dân ca đặc biệt, có mối liên hệ gần gũi với âm nhạc chuyên nghiệp, cụ thể là ca nhạc thính phòng Huế (Ca Huế). Đây là bài bản dân Huế ca duy nhất được diễn xướng ở khung nhịp 3 (gõ 3 bỏ 1) chỉ có trong Ca Huế, được thể hiện ở các bài bản lớn và chính thống như Nam Ai, Nam Bình, Phú lục, Nam Xuân, Quả phụ, Cung nam.

Bài Lý tử vi được xây dựng trên thể thơ lục bát, lời cổ như sau:

Tử vi dầu dãi nắng sương
Huê
2 cam, huê quít biết thương huê nào
Em thương huê mận, huê đào
Còn bông huê cúc biết vào tay ai
Này ai thăm thắm chớ phai



Bài này được nghệ nhân chia thành nhiều lớp. Các lớp có cùng lòng bản, cùng nội dung âm nhạc, được diễn xướng lặp đi lặp lại nhiều lần tạo thành một tiết mục trình diễn. Nói cách khác, lớp có thể xem là một bài bản âm nhạc hoàn chỉnh, và vì nó có cấu trúc ngắn gọn nên thường được diễn xướng lặp đi lặp lại nhiều lần với các lời thơ khác nhau để chuyển tải nhiều ý nghĩa cho tiết mục trình diễn. Ở trường hợp này, lớp giống với khái niệm trổ trong dân ca Bắc bộ3. Như vậy, theo cách hiểu của người xưa dưới góc độ trình diễn, lớp là một phần của tiết mục diễn xướng, còn xét dưới góc độ âm nhạc, lớp là một bài nhạc hoàn chỉnh về cấu trúc.

Trên cơ sở các câu thơ lục bát nêu trên, người ta hát thành lời như sau:

Lớp mái:

Dầu
dãi nắng sương, tử vi dầu dãi nắng sương
Huê cam (tình như) huê quít biết thương huê nào
Em thương huê mận, huê đào.

Lớp trống:


Huê mận huê đào, em thương huê mận huê đào
Còn bông (tình như) huê cúc biết vào tay ai
(ơi) Này ai thằm thẳm chớ phai

Lớp mái: …


Mỗi lớp của bài bản này được xây dựng từ một cặp lục bát và một câu lục, cứ như thế, các lớp móc xích lại với nhau, nối kết thành một phần trình diễn ngắn hay dài tùy vào nội dung lời thơ.

Trích bài Lý Tử vi (ví dụ 1):



Xét về yếu tố lòng bản, hai lớp này là giống nhau, nghĩa là chúng có cùng giai điệu, cùng khuôn nhịp với nhau. Nói cách khác, chúng cùng chung một giai điệu âm nhạc, nhưng được hát lặp đi lặp lại trên các lời thơ khác nhau. Song, ở đây, chúng ta thấy rằng chữ đầu tiên của lớp mái (Dầu) có thanh huyền (\), còn chữ đầu tiên của lớp trống (Huê) có thanh ngang (-), vì vậy, chúng không thể hát cùng cao độ với nhau được. Sự khác nhau về thanh điệu đó khiến cho những từ có thanh huyền bắt buộc phải hát thấp hơn những từ có thanh ngang, thanh sắc. Trong những trường hợp đó, người hát xử lý bằng cách đưa những từ thuộc nhóm thanh cao (ngang, sắc, hỏi, ngã) lên cao hơn 1 quãng 8 so với những từ thuộc nhóm thanh thấp (huyền, nặng). Cụ thể trong bài này, chữ đầu tiên của lớp mái (Dầu) được hát ở bậc đô (c), còn chữ đầu tiên của lớp trống (Huê) được đưa lên cao 1 quãng 8, hát ở bậc đô 1 (c1). Và theo luật âm dương, những gì thiên về sáng, cao, khỏe… thì thuộc dương, đối lập với tính tối, thấp, yếu… thuộc âm. Vì thế, lớp nào bắt đầu từ nốt c1 (cao hơn 1 quãng 8) thì gọi là lớp trống (thuộc dương), và lớp nào bắt đầu từ nốt c (thấp hơn 1 quãng 8) thì gọi là lớp mái (thuộc âm). Cứ như thế, các lớp trống, lớp mái lần lượt được trình diễn phụ thuộc vào thanh điệu của lời thơ.

Hiện tượng “bẻ làn nắn điệu” theo thanh điệu lời thơ như vừa nêu thực ra khá phổ biến trong dân ca Việt Nam. Ở đây, các nghệ nhân Huế xưa đã dùng cặp khái niệm trống - mái để phân biệt các lớp: lớp nào bắt đầu bằng nốt cao thì gọi là lớp trống và nếu bắt đầu bằng nốt thấp thì gọi là lớp mái, làm như thế để dễ nhận diện các lớp nhạc trong quá trình diễn xướng.

2. Trống - mái trong Tuồng Huế

Trong Tuồng truyền thống Huế (cũng như ở nhiều địa phương khác), một làn điệu hát Khách hay hát Nam (Nam ai và Nam bằng) thường có 3 câu, mỗi câu được xây dựng trên một cặp thơ lục bát (6/8) hay song thất (7/7). Thực ra, 3 câu ấy được diễn xướng trên cùng một âm điệu, nhưng được biến tấu theo cách hát kiểu trống hay mái.

Ở đây, khái niệm câu trong âm nhạc xuất phát từ khái niệm câu thơ trong văn học. Chúng ta thường nghe nói đến “câu hò”, “câu hát” hoặc là “hò một câu mái nhì”… Nhà thơ hoàng tộc xứ Huế Ưng Bình Thúc Giạ Thị (1877 - 1961) đã từng viết những vần thơ nổi tiếng: “Đưa câu mái đẩy chạnh lòng nước non”. Xưa kia, các bài bản nhạc hát thường được hát lên từ các bài thơ. Vì vậy, câu ở đây mang ý nghĩa văn học, như là câu thơ, nhưng khi câu thơ ấy được hò hay hát lên thì người ta gọi là câu hò, câu hát. Như thế, khái niệm câu từ ý nghĩa văn học đã được chuyển biến thành ý nghĩa âm nhạc. Và thông thường, với một cặp thơ lục bát, người ta có thể làm thành một bài dân ca hoàn chỉnh, cho nên, khái niệm câu cũng dùng để chỉ một bài bản âm nhạc4.

Một làn điệu Tuồng truyền thống thường được bắt đầu bằng một câu trống, tiếp theo là một câu mái và cuối cùng là một câu trống5. Trích dẫn làn điệu Nam ai sau đây trong vở Tuồng “Hồ Nguyệt Cô hóa cáo” nổi tiếng:

Câu trống: Ngàn dặm thẹn cùng non nước
            Cảnh [Gẫm] mơ màng thân trước thân sau

Câu mái: Dặm hòe một bước một đau
            Nhìn xem cảnh cũ ra màu dở dang

Câu trống: Ôm lòng hổ với phu lang
            Non sông lỗi hẹn cùng chàng từ đây


Dựa trên cùng một âm điệu, nhưng câu trống bắt buộc phải có những chữ hát cao lên so với câu mái. Ở hát Nam, những chữ này thường nằm ở vế thứ hai, còn ở hát Khách thì nằm ở vế thứ nhất. Trích ví dụ câu trống trong hát Nam ai, từ “cảnh” được hát luyến cao lên đến bậc đô1 6:

Ví dụ 2:



Nếu ở câu mái thì từ “cảnh” được hát luyến lên chỉ đến bậc la:

Ví dụ 3:



Vế nhạc - tương ứng với một câu thơ - cũng tuân thủ quy tắc âm - dương. Nếu câu thơ đầu đã hát cao lên (vế trống) thì câu thơ thứ hai phải hát thấp xuống (vế mái). Thậm chí, khi một chữ đã được hát cao lên rồi thì những chữ tiếp theo phải hạ thấp xuống để tạo nên làn sóng giai điệu lên bổng xuống trầm, về ý nghĩa triết học thì tạo sự cân bằng âm - dương trong âm nhạc (xem ví dụ 2).

Như thế, tương tự như trường hợp bài Lý tử vi vừa nêu, ở hát Tuồng, câu trống, vế trống được hát cao lên, còn câu mái, vế mái được hát thấp hơn. Đây là sự biến tấu trong âm nhạc Tuồng, thể hiện nguyên tắc âm - dương trong âm nhạc. Tác giả Mịch Quang đã nêu nguyên tắc trống - mái trong hát Tuồng: “Tất cả các điệu hát tuồng đều phải bảo đảm sự tuần hoàn của hai vế trốngmái. Trong vế trống, người hát phải đưa giọng đi lên, trong vế mái phải đưa giọng đi xuống. Quy tắc này nhằm đảm bảo sự cân đối tương quan trầm bổng trong giai điệu. Nếu hát liền hai vế trống hay liền hai vế mái thì giai điệu sẽ trơ trẽn, khó nghe”7. Các làn điệu Tuồng vốn có tính co giãn, tính biến tấu rất cao, là mảnh đất màu mỡ để diễn viên thể hiện khả năng sáng tạo, ứng tác của mình theo tâm trạng nhân vật. Dù vậy, người xưa vẫn đề ra những nguyên tắc nhất định để diễn viên dựa vào đó mà ứng diễn. Và nguyên tắc hát các câu trống, câu mái xen kẽ là một trong những nguyên tắc quan trọng để tạo nên những cao trào, nhằm nhấn mạnh, lột tả nội tâm nhân vật, cũng như thể hiện tài năng của nghệ sĩ trong nghệ thuật hát Tuồng.

3. Trống - mái trong Nhã nhạc Huế: bài Nam Bằng

Nhã nhạc là các bài bản âm nhạc dùng trong các nghi lễ cung đình, bao gồm Đại nhạc, Tiểu nhạc và các nhạc chương. Hiện tượng trống - mái được tìm thấy ở một bài bản thuộc Đại nhạc, đó là bài Nam Bằng8.

Bài Nam Bằng gồm có 2 sáp (lớp), sáp trống được gọi là Nam hùng, sáp mái được gọi là Nam trĩ, với giai điệu như sau:

Nam Bằng sáp trống (ví dụ 4):



Nam Bằng sáp mái (trích) (ví dụ 5):



So sánh hai giai điệu này, ta thấy chúng không có cùng lòng bản: sáp trống có 8 nhịp, sáp mái có 24 nhịp, giai điệu không giống nhau, cao độ không có sự cách biệt cao, thấp rõ ràng như ở các trường hợp nêu trên. Chúng tôi đã hỏi một số nghệ nhân lý do tại sao gọi là sáp trống, sáp mái trong trường hợp này và được giải thích rằng có lẽ người xưa dùng các chữ trống mái chỉ để phân biệt đoạn nhạc này và đoạn nhạc kia trong bài chứ không dùng đến ý nghĩa triết học của chúng (?)9. Đây là vấn đề còn tồn nghi, cần được nghiên cứu thêm.

Tóm lại, trong âm nhạc truyền thống Việt Nam nói chung và Huế nói riêng, người xưa đã có ý thức phân chia khúc thức các bài bản âm nhạc hoặc các tiết mục trình diễn theo những cách thức khác nhau tùy vào mỗi thể loại, vùng miền. Không những thế, nghệ nhân Huế xưa đã dùng cặp phạm trù âm - dương, biểu hiện ở các khái niệm trống - mái, để phân biệt các lớp, các đoạn dựa theo cao độ của chúng: đoạn nào có những nốt cao thì gọi là trống (thuộc dương), đoạn nào có những nốt thấp thì gọi là mái (thuộc âm). Điều đó cho thấy người xưa đã vận dụng ý nghĩa triết học âm dương vào âm nhạc. Bên cạnh đó, sự hòa hợp giữa hai yếu tố âm - dương cũng được vận dụng khi các lớp/vế/chữ trống, mái được diễn xướng xen kẽ với nhau, phù hợp với kết cấu giai điệu lúc lên bổng, khi xuống trầm của âm nhạc, tạo hiệu quả thẩm mỹ đối với người nghe. Ở trên vùng đất Nho học như kinh đô Huế ngày xưa, sự vận dụng của cặp phạm trù âm - dương như đã phân tích trong bài viết này là điều hiển nhiên, phần nào thể hiện tính bác học, chuyên nghiệp trong âm nhạc truyền thống còn được bảo tồn đến ngày nay tại cùng đất cố đô.

P.T.T
(TCSH377/07-2020)

-----------------
1. Huyền Nga, Cấu trúc dân ca người Việt, Nxb. Lao Động, Hà Nội, tr.41.
2. Nghĩa là hoa. Người Huế có tục kỵ húy (kiêng gọi tên người trong hoàng tộc), cho nên hoa được nói trệch là huê.
3. Huyền Nga, sđd, tr.63.
4. Xem thêm Huyền Nga, sđd, tr.50.
5. Xem thêm Hồ Đắc Bích (Chủ biên), Đào tạo diễn viên bậc Trung cấp nghệ thuật hát Tuồng, Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật Bình Định, 1995, tr.23.27.
6. Các đoạn ký âm nhạc Tuồng trong bài là do chúng tôi ký âm từ cuộc phỏng vấn NSND Bạch Hạc - Giám đốc Nhà hát Nghệ thuật Cung đình Huế vào ngày 13/4/2020.
7. Mịch Quang, Tìm hiểu nghệ thuật Tuồng, Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội, 1963, tr.89.
8. Bài này khác hoàn toàn với bài Nam Bằng (Nam Bình) của Ca Huế.
9. Phỏng vấn Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Đình Vân ngày 14/4/2020. Phỏng vấn Nghệ nhân Ưu tú Trần Thảo ngày 16/4/2020.  

 

Tài liệu tham khảo:

1. Hồ Đắc Bích (Chủ biên), Đào tạo diễn viên bậc Trung cấp nghệ thuật hát Tuồng, Trường Trung học Văn hóa Nghệ thuật Bình Định, 1995.
2. Dương Bích Hà, Lý Huế, Nxb. Âm nhạc, Hà Nội, 1997.
3. Huyền Nga, Cấu trúc dân ca người Việt, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2012.
4. Mịch Quang, Tìm hiểu nghệ thuật Tuồng, Văn hóa - Nghệ thuật, Hà Nội, 1963.
5. Lê Yên, Những vấn đề cơ bản trong âm nhạc Tuồng, Nxb. Thế giới, Hà Nội, 1994.
6. Hoàng Yến, Âm nhạc Huế - đờn nguyệt và đờn tranh, Những người bạn cố đô Huế, bản dịch của Đặng Như Tùng, Nxb. Thuận Hóa, Huế, 1998.
7. Phỏng vấn NSND Bạch Hạc, Giám đốc Nhà hát Cung đình Huế, ngày 13/4/2020.
8. Phỏng vấn Nghệ nhân Ưu tú Nguyễn Đình Vân tại nhà riêng của ông ở 116 Trần Huy Liệu, phường Phú Hòa, Tp. Huế, ngày 14/4/2020.
9. Phỏng vấn Nghệ nhân Ưu tú Trần Thảo tại nhà riêng của ông ở phường Phú Hiệp, Tp. Huế, ngày 16/4/2020.  



 

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VIỆT ĐỨCCâu trả lời đầu tiên vẫn thuộc về môi trường sinh hoạt âm nhạc. Hiện nay ở thành phố Hồ Chí Minh mỗi đêm có đến 50 tụ điểm ca nhạc hoạt động với cơn sốt ca sỹ leo thang đến chóng mặt.

  • Dương Bích HàCũng như các loại hình nghệ thuật khác, nền âm nhạc cổ truyền luôn tồn tại hai dòng: âm nhạc bác học và âm nhạc dân gian.Ở Huế, trên một thế kỷ là kinh đô của triều đại phong kiến Việt Nam, nên đặc biệt, tính chất này được bộc lộ rất rõ và triệt để, là nơi phân chia rạch ròi nhất các giai tầng trong xã hội, trong văn hóa nghệ thuật.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNgày xưa, xã hội Việt Nam thực hiện nguyên tắc “phụ truyền tử kế” (cha truyền con nối), cho nên ông nội tôi - cụ Nguyễn Đắc Tiếu (sinh 1879), người làng Dã Lê chánh, xã Thủy Vân, huyện Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên, lúc mới lên mười tuổi, đã được cố tôi (lính trong đội Nhã nhạc Nam triều) đem vào Đại nội học Nhạc cung đình (Musique de Cour).

  • PHAN THUẬN THẢONhã nhạc là loại hình âm nhạc chính thống được sử dụng trong các cuộc tế, lễ của các triều đình quân chủ ở Việt Nam và một số nước khu vực Đông Á. Trong các cuộc triều hội, cúng tế, âm nhạc luôn theo suốt quy trình của buổi lễ, từ lúc mở đầu cho đến hồi kết thúc. Nó tham gia vào từng tiết lễ, là một thành tố không thể thiếu của cuộc lễ, đồng thời, là phương tiện giúp con người giao tiếp với thế giới thần linh. Loại hình âm nhạc này được các triều đại quân chủ hết sức coi trọng, được phát triển thành một thứ quốc nhạc và là một trong những biểu tượng cho sức mạnh của vương quyền và sự vững bền của triều đại.

  • THÂN VĂN1. Phương thức liên kết về bài bản.Đặc điểm chung nhất của hệ thống bài bản hòa tấu nhạc cung đình thường là ngắn gọn, gắn liền và phù hợp với các ca chương trong mỗi nghi thức tế lễ. Những nghi thức này được tiến hành theo một trật tự trang trọng và nghiêm ngặt, nên mỗi bài bản ca chương và âm nhạc buộc phải trình tấu đúng với thời gian cho phép của từng nghi thức. Những bài bản này đương nhiên hoàn toàn độc lập về nội dung, nhưng do nằm trong một trật tự trình tấu nối tiếp liên tục, nên ngẫu nhiên đã hình thành các thể loại liên hoàn khúc khác nhau. Trong đó, độ dài, ngắn của mỗi liên hoàn khúc, tuỳ thuộc vào tính chất quan trọng của cuộc lễ, tuỳ thuộc vào số lượt nghi thức và số ca chương mà cuộc lễ quy định.

  • YAMAGUTI OSAMUTháng Giêng năm 1994, trong lúc đang còn ngất ngây hương vị Tết, thì đột nhiên điện thoại và fax từ Paris đến tới tấp. Đó là vì UNESCO đã nhận lời yêu cầu của chính phủ Việt Nam để mở một Hội nghị Quốc tế thảo luận về vấn đề nên làm gì và cái gì có thể làm được để bảo tồn và phát huy tài sản văn hoá vô hình của Việt Nam, vì vậy họ muốn mời tôi tham gia hội nghị và đưa ra đề nghị cụ thể. Ông Tokumaru Yosihiko (giáo sư của Đại học Nữ Ochanomizu, lúc đó còn là Trưởng khoa của Khoa Văn hoá- Giáo dục) cũng nhận được lời mời như vậy, nên tôi đã liên lạc với ông và cả hai quyết định nhận lời mời này.

  • VIỆT HÙNGCuộc toạ đàm với chủ đề Sự cần thiết phải thành lập nhạc viện ở Huế vừa diễn ra vào ngày 10/3/2004. Đây là một trong những hoạt động nằm trong khuôn khổ của Trại sáng tác khí nhạc dân tộc và phê bình lý luận âm nhạc, do Chi hội Nhạc sĩ Việt Nam Thừa Thiên Huế phối hợp với Trường Đại học Nghệ thuật Huế tổ chức từ 9/3 đến 17/3/2004.

  • THÂN VĂNSau hơn 2 tháng phát động và 9 ngày chính thức dự trại (từ ngày 09 đến 17/3/2004), với 14 tác phẩm khí nhạc dân tộc và 5 tác phẩm lý luận phê bình âm nhạc của 17 nhạc sĩ có mặt tham dự trại. Lễ bế mạc chiều ngày 17/3/2004 Trại sáng tác khí nhạc dân tộc & lý luận phê bình âm nhạc tại Huế đã gây được ấn tượng tốt đẹp và những tín hiệu đáng mừng trong lòng nhân dân Cố Đô. Điều đáng nói là các nhạc sĩ của Hà Nội, Huế và TP.Hồ Chí Minh đã gặp nhau từ một ý tưởng sáng tạo chủ đạo là nhằm tôn vinh và phát huy các giá trị của di sản văn hoá phi vật thể và truyền khẩu ở Huế, góp phần định hướng cho mô hình và mục tiêu đào tạo của Nhạc viện Huế trong tương lai.

  • TRẦN VĂN KHÊNhạc Cung đình là một bộ môn nhạc truyền thống Việt Nam dùng trong Cung đình. Nhưng người sáng tạo và biểu diễn Nhạc Cung đình hầu hết là những nhạc sĩ, nghệ sĩ từ trong dân gian, có tay nghề cao, được sung vào Cung để phụng sự cho Triều đình. Nhạc Cung đình Huế là một bộ môn âm nhạc truyền thống Việt Nam rất đặc biệt và có một giá trị lịch sử, nghệ thuật rất cao.

  • THÁI CÔNG NGUYÊNMột nhà văn nước ngoài khi đến thăm Huế đã nói: “Huế là một bảo tàng kỳ lạ chứa đựng trong lòng mình những kho tàng vô giá, những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần Việt Nam”. Đúng vậy, bên cạnh kho tàng di sản văn hóa kiến trúc đồ sộ có giá trị tầm vóc quốc tế, Huế còn là một tụ điểm di sản văn hóa tinh thần phong phú, một vùng văn hóa Phú Xuân đặc sắc “Huế đẹp và thơ” nổi tiếng.

  • PHÙNG PHUNgày 07 tháng 11 năm 2003, ông Koichiro Matsuura, Tổng Giám đốc UNESCO đã chính thức công bố trong một buổi lễ long trọng nhân kỳ họp toàn thể lần thứ 32 của Ðại hội đồng UNESCO tại Paris: UNESCO đã ghi tên 28 Kiệt tác vào Danh mục Kiệt tác Di sản Văn hóa Phi vật thể và Truyền khẩu của Nhân loại.

  • LTS: Đại hội khoá II (nhiệm kỳ 2003 - 2008) của Chi hội Nhạc sỹ Việt Nam Thừa Thiên Huế vừa diễn ra vào trung tuần tháng 9. Nhạc sỹ Hồng Đăng, Phó Tổng thư ký Hội Nhạc sỹ Việt Nam, thay mặt cho BCH Hội Nhạc sỹ Việt Nam vào tham gia chỉ đạo Đại hội. Tại Đại hội, nhiều tham luận, ý kiến phát biểu của các nhạc sỹ đã thể hiện được sự trăn trở về thực trạng và hướng phát triển của nghệ thuật âm nhạc đương đại Huế. Sông Hương xin trích đăng một số ý kiến đã trình bày tại đại hội.

  • LÂM TÔ LỘCĐại tá - nhạc sĩ Đức Tùng, sinh năm 1926 tại Huế đẹp và thơ, đã mãi mãi xa quê: Ông mất ngày 25/01/2003. Ông viết ca khúc từ trước Cách mạng tháng Tám như Kỷ niệm ngày hè, Bên trời xa, Dòng Dịch thủy, Dưới ánh trăng mơ. Ông đã từng biểu diễn ca nhạc tại nhà hát Accueil, là cây Accordéon cầm chịch của ban nhạc gia đình ở phố Hàng Bè.

  • NGUYỄN KHẮC PHÊ Năm nay (2003), nhạc sĩ Trần Hữu Pháp (NSTHP) “mới” tròn 70 tuổi, nhưng dễ đã mấy chục năm, sau khi nhạc sĩ Trần Hoàn rời Cố đô ra Hà Nội nhận các trọng trách, NSTHP nghiễm nhiên ngồi “chiếu trên”, là “già làng” của giới âm nhạc Thừa Thiên Huế. Kể cũng phải; từ bốn mươi năm trước, khi hàng triệu thiếu nhi miền Bắc đội mũ rơm dắt lá nguỵ trang đến trường, miệng líu lo ca bài hát ông vừa sáng tác “Tiếp đạn nào / Tiếp đạn chuyền tay trên chiến hào / Cho chú dân quân bắn nhào phản lực...” thì không ít các nhạc sĩ nổi danh bây giờ có lẽ còn... bú mẹ! Vậy mà trước mắt tôi (và chắc là với không ít người nữa) - nói ông anh đừng giận nhé - vị nhạc sĩ lão làng này lại rất...trẻ con!

  • NGUYỄN TRỌNG TẠO...Người ta thường nhắc tới Thái Quý như nhắc tới một con người giàu tình cảm, dễ khóc, dễ cười, dễ nóng giận và cũng rất vị tha. Nói đến khuyết điểm của mình trong cuộc họp, anh khóc đã đành, nhưng khi chỉ trích khuyết điểm của đồng đội, anh cũng khóc...

  • NGUYỄN THANH TÚNăm ngoái, tôi tình cờ gặp nhạc sĩ Thái Quý khi ông đang bận rộn chỉ đạo "đoàn thành phố Huế" trước giờ ra sân khấu tham gia hội diễn ca múa nhạc công - nông - binh - trí thức do tỉnh Thừa Thiên Huế tổ chức tại nhà hát Trung tâm Văn hoá.

  • VĨNH PHÚCNếu kinh đô Thăng Long xưa từ trong cung phủ đã có một lối hát cửa quyền phát tán thành một dòng dân gian chuyên nghiệp là hát Ả đào và vẫn thịnh đạt dưới thời vua Lê chúa Trịnh, thì kinh đô Phú Xuân sau này, hoặc là đã từ trong dinh phủ của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong phát tán thành một lối gọi là Ca Huế (gồm cả ca và đàn). Vậy cũng có thể gọi Ca Huế là một lối hát Ả đào của người Huế, một lối chơi của các ông hoàng bà chúa xét trên quan điểm tiếp biến trong tiến trình của một lối hát truyền thống và tiến trình lịch sử từ Thăng Long đến Phú Xuân-Huế.

  • VĂN THU BÍCHTừ bao đời nay, tình yêu Huế vẫn mãi chìm sâu trong lòng những người con xứ Huế, dù đang sống trên đất Huế hoặc đã biền biệt xa xứ và Huế mộng mơ cũng len nhẹ vào hồn du khách khi đến thăm vùng đất thần kinh này.

  • TRẦN NGỌC LINHBạn còn thương bạn biết gửi sầu về nơi mô?Trước khi tôi vào Huế, chị tôi dặn: “Vào muốn gặp bà Minh Mẫn cứ đến đường Nhật Lệ mà hỏi”. Theo cách nhớ đường của một người viễn khách từ xa đến thì đến phố đó cứ thấy đầu ngõ nào có một giàn hoa tử đằng với những dây hoa buông thõng chấm xuống nền đất vỉa hè thì đó chính là lối rẽ vào ngõ nhà danh ca Minh Mẫn.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀNGọi tên hoa súng: LỤC HÀGọi thôn LIỄU HẠ: quê nhà bên sôngGọi TRẦN KIÊM: họ sắc... khôngGọi HÀ THANH: tiếng hát dòng Hương Giang