Khai bút đầu xuân

09:42 31/07/2008
XUÂN TÙNGNgày đầu xuân ở nước ta có nhiều phong tục đã được tồn tại lâu đời như tục xông đất, hái lộc, mừng tuổi: Vào những ngày đầu xuân, các tầng lớp nho sĩ còn có tục khai bút, cho chữ... vừa là thú vui, vừa là cung cấp cho những người thích xin chữ, xin câu đối về treo. Việc làm này mang một ý nghĩa văn hóa thú vị.

Minh niên khai bút, bút khai hoa
Vạn sự giai thành phú quý đa
Đa tử đa tôn, đa phúc lộc
Đắc tài đắc lợi, đắc danh gia.
Thường thường vào sáng Mồng Một Tết, một số người yêu thích văn chương ngồi vào bàn văn để "khai bút đầu Xuân" bằng một bài thơ hoặc một trang văn, để mở đầu một năm mới cho tình đời và sự nghiệp. Những bài thơ "khai bút" thù tạc giữa bạn bè đầu xuân với nhau, sau này, cũng có nhiều bài đã đóng góp vào sự nghiệp sáng tác của tác giả.
Khai bút của các nhà túc nho, của các ông đồ càng phong phú và đa dạng. Đó là việc cho chữ, cho câu đối. Xưa, khai bút của các nho gia sĩ tử toàn bằng chữ nho. Bên cạnh những thú chơi treo tranh dân gian là những đại tự hay câu đối bằng mực tàu chữ nho trên giấy hồng điều. Chữ nho trải ra trên giấy hồng với nét bút điêu luyện tạo thành những nét tạo hình siêu thoát, bằng một bức tranh chữ. Chơi chữ là cách chơi tinh thần thanh khiết. Từ nét chữ, người xem đoán được cả nết người. Nhìn nét chữ, người ta bình rằng chữ này nhục tự là chữ thịt của hạng người tầm thường. Chữ kia là cốt tự là chữ viết cứng như xương của kẻ có cốt cách phi thường. Chữ nho cũng có nhiều cách viết của cùng một chữ. Kiểu chữ triện là kiểu chữ khắc trên mai rùa cổ xưa nhất, sau này dùng trên các dấu triện. Kiểu chữ chân viết đầy đủ các nét ngang, dọc, chấm, phẩy... đầy đủ kiểu chuẩn hóa trong các văn bản chính qui. Kiểu chữ thảo (có nghĩa là viết tháu như cây cỏ) là một kiểu viết phóng khoáng không bị bó buộc, nhìn chữ viết thảo như rồng bay phượng múa. Tùy từng cách viết của từng người của từng hoàn cảnh khác nhau khi khai bút hay cho chữ người đến xin.
Trong việc cho chữ, cho câu đối xưa nay cũng có nhiều giai thoại.
Vào ngày đầu xuân, một nông dân trong vùng đến nhà cụ Yên Đổ:
- Cháu kiếm một cơi trầu đến thưa với cụ, xin cụ một đôi câu đối về thờ ông cháu trong ngày xuân.
Nhà thơ tủm tỉm cười, lấy ngay giấy bút ra viết:
Kiếm một cơi trầu, thưa với cụ
Xin đôi câu đối để thờ ông
Yên Đỗ chỉ làm gọn lại câu thưa của người xin chữ, thành một câu đối bình dị.
Và một lần, một viên tri huyện vừa tham vừa keo kiệt, mà thích chơi sang và sính chữ. Hắn đến nhà Nguyễn Khuyến, xin mấy chữ về treo ở công đường. Biết rõ tim đen của viên tri huyện nhà thơ bèn ngã giá:
- Được, chữ thì có, nhưng đắt giá lắm. Mỗi chữ mười quan. Thầy cần mấy chữ cứ tính ra mà lấy.
Viên tri huyện bấm bụng xin cụ Tam Nguyên bốn chữ. Nguyễn Khuyến bèn viết cho hắn bốn chữ:
Thiên lý lương nhân
Có nghĩa là nghìn dặm người tốt. Quan huyện mừng khấp khởi mang về chạm thành bức đại tự sơn son thiếp vàng, treo giữa công đường.
Có một người đến cửa quan, thấy bức đại tự đó; bèn nói với quan huyện là ai cho bốn chữ kia là nhằm chửi quan là kẻ tham ăn: Bởi chữ thiên lý lương nhân là chiết tự của hai chữ TRỌNG THỰC - tức là trọng miếng ăn. Viên quan huyện tức lắm, nhưng chẳng làm gì được tác giả.
Nói đến khai bút đầu xuân, là nhớ đến bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên:
Bao nhiêu người thuê viết
Tấm tắc ngợi khen tài
"Hoa tay thảo những nét
Như phượng múa, rồng bay"
Nhưng mỗi năm mỗi vắng
Người thuê viết nay đâu?
Giấy đỏ buồn không thắm
Mực đọng trong nghiên sầu...
Ở đây chẳng những cho chữ, mà còn bán chữ để kiếm miếng ăn của những ông đồ nghèo.
Tục khai bút, cho chữ vào những ngày xuân đến nay vẫn tiếp tục duy trì trong nhiều thế hệ. Từ khai bút, cho chữ đến nghệ thuật thư pháp cũng là cả một quá trình chơi của các thi nhân mặc khách. Ngày nay nhiều nhà nho vẫn tiếp tục thú vui cho chữ để các bạn bè đem về treo ở nhà mình. Các nhà thâm nho Hoàng Trung Thông, Tào Mạt trước đây, hay các cụ Bùi Hạnh Cẩn, Tú Sót vào những ngày đầu xuân thường khai bút cả chữ nho lẫn chữ quốc ngữ. Mấy xuân gần đây, ở Văn Miếu hoặc dọc đường Bà Triệu, Hà Nội, một số nhà nho đã mở triển lãm thư pháp và bày tranh chữ cho khách tham quan. Và tại Văn Miếu vào một ngày đầu xuân, nhà họa tự Lê Xuân Hòa đã viết và tặng chữ cho nguyên Tổng bí thư Đỗ Mười và Đại tướng Võ Nguyên Giáp. Lớp trẻ ngày nay cũng yêu chuộng trò chơi này. Những "ông đồ trẻ" như Ngô Văn Phú, Đỗ Chu , Phạm Minh Hải... cũng tập tò cho chữ để bạn bè mang về treo ở phòng văn của mình.
Chơi chữ (hay cho chữ) của tục khai bút đầu xuân là một thú chơi văn hóa, thanh cao. Đến một nhà ai đó, gặp trên tường hay giá sách một chữ PHÚC, chữ ĐỨC hay chữ THẦN, chữ PHẬT... hoặc một bài thơ chữ thảo "phượng múa rồng bay" như một bức tranh điểm xuyết cho căn phòng ấm cúng, vui trẻ.
X.T

(nguồn: TCSH số 156 - 02 - 2002)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • VÕ MẠNH LẬP

    Âm vang tiếng nổ ở cầu Ông Thượng chưa dứt thì hàng loạt tiếng súng các cỡ rộ lên chĩa mũi vào làng Lại Thế.

  • NGUYỄN VĂN DŨNG
                          
                        Bút ký

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                             Ký sự

    Trước Mậu Thân 1968, Thành đội Huế lập chiến khu ở giữa rừng phía đông tỉnh. Ban Chỉ huy Thành đội gồm Ban Tham mưu, Ban Chính trị, Ban Hậu cần.

  • NGUYỄN NGỌC PHÚ
                       Tùy bút

    Tôi tin rằng trong đời mỗi con người ai cũng qua quãng thời ấu thơ nghe tiếng ru của mẹ trong cánh võng “ầu ơ”; cứ thế mà lớn lên mà trưởng thành.

  • NGUYÊN QUÂN

    Đôi khi trong sự trầm lặng tĩnh mịch thường hằng, và những con người quen sống với sự tĩnh lặng ấy thường vô tình không nhận thấy những sự thay đổi chung quanh vì nó cũng âm thầm không xôn xao ầm ĩ.

  • HẢI HẠC PHAN
         Bút ký dự thi

    Con chim xanh tìm hạt dẻ sa cánh chợt khép mỏ vút bay khi nghe tiếng động cơ xe di chuyển về phía Tây dãy Trường Sơn.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                      Ký sự

    Tôi là phóng viên của báo Cờ Giải phóng - Thừa Thiên Huế. Sống ở trên chiến khu, đi viết, chúng tôi thường lên các bản vùng cao, đến các đơn vị quân đội đóng trong rừng, gặp các chiến sĩ từ vùng sâu lên,… chứ chưa đi vùng sâu lần nào. Dù biết vùng tranh chấp rất hấp dẫn, nhưng chưa có cơ hội.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                       

    Viết về bà mẹ anh hùng Nguyễn Thị Lớn, xã Thủy Dương (xã anh hùng) huyện Hương Thủy, Thừa Thiên Huế.

  • HÀ LÊ
       Tản văn

    Cây gòn bên bến nước phía sông An Cựu đã bắt đầu bung nở những đám mây trắng đầu tiên. 

  • NGUYÊN QUÂN
            Bút ký dự thi

    Người đàn bà trung niên dừng lại giữa lưng chừng dốc rồi nói:
    - Đã tới nơi rồi chú.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ

                Bút ký dự thi

  • LÊ VŨ TRƯỜNG GIANG
                        Ghi chép

    A Lưới là một huyện phía Tây tỉnh Thừa Thiên Huế, có biên giới giáp nước bạn Lào.

  • LÊ HÀ

    Cây hoa gạo bên phía cầu Dã Viên sáng nay bỗng thắp lửa đỏ cả một khung trời. Cái màu đỏ chói lòa như ngọn đuốc rực cháy giữa một bầu trời xanh thẳm tháng ba còn vươn mùi ẩm lạnh.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                        Bút ký

    Đã hai năm nay tôi mới lại về thăm nhà máy sợi Huế. Cái đập vào mắt tôi trước tiên là bức tượng những bàn tay con gái rất đẹp, các ngón thon thả, tất cả đều giơ lên, nâng cao búp sợi trắng ngần. Bốn xung quanh là những vòi nước phun, rất mảnh, như những dòng sợi mỏng manh bay lên.


  • LÊ QUỐC HÁN

  • NGUYỄN THỊ ANH ĐÀO

    Những khoảnh khắc mùa trôi đi trong dòng mưa ngút ngàn. Vùng này, mưa không ngớt mà nắng cũng chát chao. Khoảng khắc không nhớ bỗng dưng lại khiến người ta không thể nguôi ngoai về một điều đã cũ.

  • NGUYỄN QUANG HÀ
                        Bút ký

    Tưởng nhớ Phan Thế Phương và Nguyễn Như Tùng

  • LÊ QUỐC HÁN

    Mùa thu mùa của chia ly
    Nên con sông chảy chẳng khi nào ngừng

  • VIỆT HÙNG
            Ghi Chép

    Vào một đêm mùa thu của Hà Nội ông Nguyễn Ngọc Dũng, vụ trưởng thanh tra Bộ tài chính, trong một giấc mộng, ông thấy người anh ruột của mình hiện về.

  • TRẦN BĂNG KHUÊ  
                   Bút ký  

    1.
    Bất giác, văng vẳng “con đường cái quan” Phạm Duy ca rằng:
    “Người về chưa ghé sông Hương
    Đã nghe tiếng gọi đôi đường đắng cay”