Kể chuyện bình thơ Bác Hồ

16:28 28/11/2008
HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.

Âm Hán, đoạn 1:
Nhất thứ kê đề dạ vị tan
Quần tinh ủng Nguyệt thướng thu san
Chinh nhân dĩ tại chinh đồ thượng
Nghênh diện thu phong trận trận hàn
Dịch:
Gà gáy một lần đêm chửa tan (1)
Chòm sao đưa Nguyệt vượt lên ngàn (2)
Người đi cất bước trên đường thẳm (3)
Rát mặt đêm thu trận gió hàn (4)
Sau nhiều ý kiến của các bạn, tôi thưa thầy: Bài thơ dịch thoát nghĩa, có vần điệu, đọc nghe rất xuôi tai, nhưng em nghĩ rằng dịch như vậy e không đúng ý tác giả.

Tại câu 3, từ “chinh nhân” được hiểu là người chiến sĩ đi đánh giặc, “dĩ tại chinh đồ thượng” được hiểu là đang trên đường ra trận, Bác Hồ của chúng ta là một chiến sĩ cách mạng, Bác đang dấn thân vào con đường đấu tranh để giải phóng dân tộc, tuy bị bắt và bị giải đi, nhưng với sự lạc quan cách mạng Bác đã hài hước ví Bác như một người chiến sĩ đang trên đường ra trận để chiến đấu với kẻ thù, nhưng lại được dịch là: Người đi cất bước trên đường thẳm thì có thể hiểu bất cứ người nào, lại đang đi trên “đường thẳm” là xa vời vợi, mịt mù, vô định, không phương hướng, không mục đích.
Tại câu 4: Từ “nghênh diện” được hiểu là đối mặt; “thu phong trận trận hàn” là từng trận, từng trận gió lạnh mùa thu thổi tới; là người chiến sĩ đang trên đường đi đánh giặc Bác sẵn sàng đón nhận phong ba bão táp, gian khổ, khó khăn ở phía trước, chứ không phải “rát mặt đêm thu trận gió hàn” như chỉ có một sự đau đớn thể xác, có thể làm chán nản, nhụt nhuệ khí của người chiến sĩ cách mạng.

Bởi vậy, theo em hai câu trên phải tạm dịch là:
“Chiến binh trên bước đường ra trận
Đối mặt đêm thu trận gió hàn.
Như vậy mới sát nghĩa, phù hợp với hoàn cảnh và đúng với ý chí đích thực của tác giả, lúc bấy giờ.
Sau buổi bình thơ, nghe bạn bè nói tôi được điểm 10, tôi hốt hoảng, trong lòng nghi bạn bè “chơi khăm”, trực tiếp hỏi thầy giáo, thầy trả lời “chính tôi cho em điểm 10 vì em đã nói những điều mà chưa ai nói”.
H.V.T

(nguồn: TCSH số 207 - 05 - 2006)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • Chúng tôi cho rằng trong lịch sử văn học Việt chỉ có Chí Phèo mới là một hình tượng đích thực. Chí Phèo là hiện thân của sự tồn tại vĩnh cửu của bản ngã VÔ CAN. 

  • Đó là bản đàn Thúy Kiều đàn cho Kim Trọng nghe lần cuối trong ngày tái hợp. Bản đàn chứa đầy những mâu thuẫn nghịch lý, bởi vì cũng như bao lần trước, lần này vẫn là bản “bạc mệnh” năm xưa. Nhập hồn Kim Trọng, Nguyễn Du bình luận:                Lọt tai nghe suốt năm cung                Tiếng nào là chẳng não nùng (*) xôn xaoTác quyền và nghệ nhân biểu diễn vẫn là nàng Kiều chứ không còn ai khác, nhưng thật lạ:                Xưa sao sầu thảm, nay sao vui vầy?Kim Trọng, tri âm và trong cuộc vẫn không khỏi "hồ đồ", huống gì chúng ta, những người đến sau Nguyễn Du muộn hơn hai thế kỷ? 

  • Có thể nói, học tập phong cách ngôn ngữ Chủ tịch Hồ Chí Minh, trước hết, là học tập cách viết và cách lập luận chặt chẽ qua từng câu chữ, mỗi trang văn chính luận. Những văn bản: “Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến”, “Tuyên truyền”, “Bản án chế độ thực dân Pháp”, “Tuyên ngôn Độc lập” luôn là những áng văn mẫu mực về phong cách ngôn ngữ ngắn gọn, chắc chắn, dễ hiểu, chính xác và giàu cảm xúc. 

  • NGUYỄN ĐĂNG ĐIỆP1. Đội ngũ các nhà văn trẻ mà tôi nói tới trong bài viết này là những cây bút sinh ra sau 1975. Biết rằng trong văn chương, khái niệm trẻ/ già chỉ là một khái niệm có tính “tương đối” vì già hay trẻ đều phải nỗ lực để tạo nên những tác phẩm xuất sắc, vị trí của họ phải được đánh giá thông qua tác phẩm chứ không phải từ những chiếu cố ngoài văn học. 

  • NGUYỄN KHẮC PHÊTrong văn chương, cách gọi “chủ nghĩa” này hay “chủ nghĩa” khác đều không ổn, thậm chí có hại vì vô hình trung như thế là cách buộc nhà văn theo “một con đường” vạch sẵn mà từ hơn nửa thế kỷ trước, Hải Triều đã lên án...