TRẦN HUYỀN TRÂN
Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?
Nikos Kazantzakis (1883 - 1957) - nhà văn Hy Lạp đã biến người đàn bà tội lỗi trong Kinh thánh thành một người tình say mê của Đức Jesus. Đó là Magdalene - nàng là mối tình đầu tiên và là vợ của Jesus. Nàng hiện diện trong tác phẩm như một nỗi đau và niềm đam mê cuộc sống trần tục. Cuốn tiểu thuyết gây phẫn nộ đối với công chúng mộ đạo, chính là những tình tiết trong mối quan hệ giữa Jesus và người đàn bà tội lỗi này.
Tuy nhiên, xin được phép biện hộ cho Nikos Kazantzakis: tiểu thuyết chỉ là sự giả định. Một giả định về sự tồn tại của Jesus ở cõi trần tục. Mặt khác, trong lời giới thiệu cuốn tiểu thuyết, tác giả đã nói về chủ đích sáng tạo của mình: “Tôi tin chắc rằng tất cả những người tự do khi đọc cuốn sách này, sẽ tràn ngập tình yêu thương hơn bao giờ hết, tình yêu mến Chúa”(1). Đó là bằng cớ để sau này, bộ phim về tiểu thuyết: Cám dỗ cuối cùng của Chúa đã vượt qua vụ kiện tụng tại Viện Tòa án tối cao của Mỹ và đến được với công chúng.
Magdalene - người đàn bà tội lỗi trong Kinh thánh
Như chúng ta biết, trong Tân ước, Mary Magdalene là một người phụ nữ mà Chúa Jesus rất yêu quý. Người đời thường gọi nàng bằng những tên khác nhau như: Marie - Magdeleine, Marie de Magdala. Nàng có mặt bên Jesus trong những sự kiện quan trọng: lúc Chúa bị đóng đinh trên thập giá ở đồi Gol- gotha cho đến khi phục sinh và trao lại nàng những lời răn dạy tin cẩn. Theo Tân ước, các môn đồ của Jesus chép lại, Magdalene là một người con gái tội lỗi, ở thị trấn Magdala. Nàng có mái tóc rất dài và dĩ nhiên là xinh đẹp, quyến rũ. Magdalene đã bị thiên hạ nguyền rủa vì tội cám dỗ đàn ông. Được Jesus cứu chuộc tội lỗi, Magdalene hoàn lương. Nàng đi theo Jesus trong suốt cuộc hành trình thuyết giảng đức tin. Một vài chi tiết trong Tân ước cho thấy sự gần gũi giữa người phụ nữ tội lỗi này với Đức Jesus. Rằng, Magdalene từng lấy nước mắt mà tưới ướt chân Jesus, lấy mái tóc lau rồi hôn lên chân Người (xem Tân ước, Tin mừng theo thánh Lu-ca, tr. 1748)(2).
Rõ ràng, Tân ước đã hé lộ tình cảm sâu sắc của Magdalene đối với Đức Jesus - dù đó là thứ tình cảm tôn kính, ngưỡng mộ và mang ơn. Tuy nhiên, Tân ước không nói rõ Magdalene quan hệ với Jesus như thế nào? Chỉ biết, các tín đồ có phần ghen tị với những ân sủng mà Chúa ban tặng nàng. Điều này đã được các danh họa thể hiện qua các tác phẩm nổi tiếng. Sau này, nàng được người đời tôn thờ như một Thánh nữ.
Có thể nói, đây là người đàn bà gây nhiều tranh cãi nhất đối với hậu thế, cả phái chính thống lẫn phi chính thống. Chính những giả định mập mờ của dư luận về nhân vật này, đã tạo một khoảng trống cho tiểu thuyết mặc sức tưởng tượng.
Magdalene mối tình đau khổ, đam mê của Jesus trong Cám dỗ cuối cùng của Chúa
Magdalene đã bước vào tác phẩm của Nikos Kazantzakis như một người tình đam mê - cả trong đời thực lẫn giấc mơ. Tác giả đã hợp nhất Magdalene vào Eva - người đàn bà đầu tiên giúp loài người ý thức được bản thể của giới tính và niềm hoan lạc trần tục. Jesus và Magdalene đã trải qua tình yêu say mê, vụng dại của tuổi ấu thơ. Ngay khi còn là một đứa trẻ, qua Magdalene, Jesus đã cảm nhận được giới tính đàn ông - điều mà trong Kinh thánh không hề nói đến. Hai mươi tuổi, Jesus quyết định cưới Magdalene làm vợ, nhưng bị Chúa ngăn cản. Magdalene bước vào con đường làm điếm để trả thù sự bội ước của Jesus. Nàng chôn vùi thân xác trong vũng bùn nhơ nhuốc ở thị trấn Magdala. Sau này, trong giấc mơ của Jesus trên thập giá, nàng trở thành vợ, mỹ mãn trong niềm hoan lạc tột cùng…
Hình tượng người đàn bà - gái điếm này hiện diện từ đầu đến cuối tác phẩm, song hành với cuộc đời Jesus. Nàng hiện thân cho niềm đam mê thân xác và những cám dỗ của lạc thú. Từ tuổi ấu thơ, Magdalene đã xuất hiện như một định mệnh trong cuộc đời của Jesus. Cả hai đã phạm phải “trò chơi ăn trái cấm”, bằng việc áp đôi bàn chân trần vào nhau để cảm nhận sự ấm áp của thân xác. Với sự kiện nếm trải tính dục tuổi ấu thơ này, Magdalene đã trở thành nỗi ám ảnh đớn đau trong suốt cuộc hành trình tìm kiếm đức tin của Jesus. Ngay cả khi quyết định lựa chọn con đường Thiên Chúa, Magdelene vẫn ngự trị trong trái tim của Ngài “Anh thấy nàng bằng ngàn cái hôn thầm kín… trước mặt anh. Giấu trong ngực nàng là mặt trời và mặt trăng… ngày và đêm lên xuống sau áo nịt trong suốt của nàng” (3, tr. 82). Có thể nói, khó khăn và đớn đau nhất của Jesus trong cuộc vật lộn giữa bản thể và tâm linh chính là Magdalene. Còn Magdalenle? Nàng dập vùi thân xác trong cay đắng để kiếm tìm sự ngọt ngào của tình yêu, nhưng vô vọng. Mãi mãi Jesus vẫn là nỗi đau và niềm khao khát của nàng…
Nếu như văn học có một quyền hạn đặc biệt, thì đó chính là giúp người đọc thỏa mãn những ước muốn bị tuyệt vọng trong thực tại. Bằng thủ pháp kỳ ảo, thông qua giấc mơ trên thập tự, Magdalene và Jesus được hạnh phúc bên nhau. Trong nỗi đau đớn bị hành xác, quỷ satan đã bày ra trước mắt Jesus một thiên đường ở trần tục đầy hoa thơm, mật ngọt. Magdalene xuất hiện với vòng hoa chanh thơm ngát, quyến rũ như một con bò cái ú mọng, trinh nguyên. Jesus đã không cưỡng được niềm ham muốn khoái lạc: “Magdalene, Magdalene yêu dấu, ôi, bao nhiêu năm ta đợi chờ giờ phút này! Ai đã nhảy vào giữa chúng ta và không cho ta tự do? - Chúa?. Jesus ôm nàng, ngửa mặt nàng ra sau và hôn lên miệng nàng… Họ nằm xuống dưới một cây chanh… Hoa chanh rơi trên hai thân hình lõa thể. Một con rắn mở đôi mắt tròn bất động nhìn họ… Magdalene ôm chặt người đàn ông, ghì sát thân thể ấy vào thân thể nàng” (3, tr. 552 - 553). Có thể nói, hiếm có cuốn tiểu thuyết nào lại viết về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo như vậy.
Giọt máu của Jesus hay là trí tưởng tượng của Nikos Kazantzakis về một dòng họ Christ trong đời sống thế tục?
Trong tác phẩm, Nikos Kazantzakis đã để Magdalene chết dưới gươm của Saul - khi nàng đang mang thai. Nhân vật Saul - tức là thánh Paul trong Kinh thánh, là người truyền tụng tư tưởng Ki tô giáo, sau khi Jesus qua đời(4). Bằng thủ pháp kỳ ảo, tác giả để giọt máu của Jesus được đầu thai vào Mary. Và cùng với chị em Mary và Marthas, Jesus sinh con đàn cháu đống…
Chúng ta đặt câu hỏi: liệu Nikos Kazantzakis đã đọc Phúc âm theo Mary Magdaleine?(5) Đây là tác phẩm, mà theo các nhà nghiên cứu Kinh thánh, Magdalene đã ghi lại đoạn đời gần gũi của nàng bên Jesus. Tra cứu về sự nghiệp của Nikos Kazantzakis, chúng ta thấy, ông đã từng bỏ ra một thời gian khá lâu để nghiên cứu Phúc âm. Vào năm 1914 ông đã đến rặng núi thánh Mont Athos - nơi tập trung nhiều tu viện lớn của Hy Lạp để tìm hiểu về Jesus và hoàn thành vở kịch Christ. Nikos Kazantzakis lại là người thông thạo nhiều ngoại ngữ, nhất là tiếng Hy Lạp cổ, để có đủ điều kiện thọc sâu vào kho tư liệu trong thâm cung bí sử của các tu viện. Tất nhiên, đó chỉ là sự nghi vấn.
Về phả hệ một Jesus, sau này cũng đã được Dan Brown đề cập trong Mật mã Da Vinci. Rằng, khi Jesus bị đóng đinh trên thập tự thì Magdalene đã mang thai. Để bảo vệ giọt máu của Jesus, nàng đã trốn sang Pháp, dưới cái tên là Gaul và sinh hạ một bé gái là Sarah. Đó là dòng dõi của vua Do Thái, dòng máu hoàng gia. Bởi vậy, tại Pháp bà được người Do Thái che chở và sau này tôn thờ như một Thánh Mẫu. Đặc biệt, vào thế kỷ V, con cháu của Jesus đã hôn phối với dòng giống hoàng gia Pháp và tạo nên một Cây hệ phả Jesus Chrits nổi tiếng - hoàng gia Merovingien ở Paris. Tòa thánh La mã đã cố tình bưng bít sự thật này. Họ ra sức triệt hạ con cái của Magdalene, vì sợ rằng, bí mật của Jesus sẽ trần trụi dưới ánh sáng. Họ đã lập ra Hội Opus Dei với nhiệm vụ tiêu hủy những tư liệu liên quan đến Jesus. Các cuộc Thập tự chinh cũng không nằm ngoài mục đích triệt hạ người Do Thái - những dấu vết dính dáng đến huyết thống của Jesus(6). Bởi vì, theo Tòa thánh, đó là sự xúc phạm niềm tin về một Đấng cứu thế - người chưa từng ăn nằm với bất kỳ phụ nữ nào ở trần gian. Đó là lập luận của Dan Brown trong cuốn tiểu thuyết trinh thám - từng gây sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu thần học ở châu Âu trong mấy năm qua.
Liệu Dan Brown có ảnh hưởng Nikos Kazantzakis trong Cám dỗ cuối cùng của Chúa? Kazantzakis viết 1952, xuất bản 1955 tại Mỹ, chuyển thể thành phim vào năm 1988, bởi đạo diễn Martin Scorsese. Mật mã da Vinci viết 2003 và chuyển thể thành phim 2006 bởi đạo diễn Ron Howard. Hai tác phẩm đều cuốn hút người đọc và gây xôn xao dư luận về Đấng Kitô trong mối quan hệ với Magdalenen - vốn từng bị giáo hội xem là một gái điếm. Ở đây, chúng ta không bàn về biệt tài tiểu thuyết của hai cây bút lừng danh này. Dan Brown viết theo dạng tiểu thuyết trinh thám - lịch sử; Nikos Kazantzakis viết theo dạng tiểu thuyết tâm lý - luận đề. Nhân vật Magdalenne trong Mật mã da Vinci chỉ được khắc họa thông qua sự truy tìm tội phạm - kẻ giết người liên quan đến bí mật một dòng họ. Còn Magdalene của Nikos Kazatzakis là một nhân vật cụ thể, sống động, bằng xương, bằng thịt, với ngoại hình quyến rũ, nội tâm sâu thẳm, đa chiều. Và trên hết, nàng đã sống hết mình với tình yêu và khoái lạc trần tục.
Như vậy, người đàn bà Magdalene từ trong Kinh thánh đã bước vào lãnh địa của văn chương như một nhân vật vừa huyền thoại vừa xác thực lịch sử. Từ một gái điếm trở thành một thánh nữ, Magdalene là đối tượng bàn cãi không bao giờ dứt của công chúng. Người đàn bà này là chứng từ quan trọng nhất để giúp hậu thế soi sáng phần bản thể của Đức Jesus.
Magdalene, nàng có thực, hay chỉ là hư ảo? Đó vẫn là một câu hỏi khó có lời giải đáp.
T.H.T
(SH299/01-14)
.........................................................
(1) Lời mở đầu của Nikos Kazantzakis: “Je suis sur que tout homme libre qui lira ce livre plein d’amour aimera plus que jamais, mieux que jamais, le Christ”, www.babelio.com/livres/Kazantzakis-La-derniere-tentation-du-Christ.
(2) Kinh Thánh (Cựu ước và Tân ước), Dẫn nhập và chú thích của Bernad Hurault và Louis Hurault, Nxb Hà Nội, 2006.
(3) Nikos Kazantzakis, La Dernière tentation du Christ, Éditions Pocket, 1988 (Bản tiếng Việt, Cám dỗ cuối cùng của Chúa, Bích Phượng dịch từ bản tiếng Anh), Nxb. Đồng Nai, 1988).
(4) Thánh Paul, tức Phaolô, người Do Thái, thuộc dòng Benjamin, mang quốc tịch La Mã; sinh vào thập niên đầu công nguyên, tại thành Tarsus, mất tại Roma thời Nero. Thánh Paul là một học giả nổi tiếng, uyên thâm về văn chương, triết học, Kinh thánh. Lúc đầu, theo đạo Do Thái truyền thống của người Israel, sau khi Jesus mất, ông lại cổ xúy và truyền tụng đạo Ki tô.
(5) Évangile de Maria Magdalene, http://nostredame.unblog.fr
(6) Sur le chemin de Marie Madeleine, www.antropologia.cat; L’Opus Dei et le Da Vinci Code, http://www.opusdei.org
TRẦN HOÀI ANH 1. Phân tâm học là lý thuyết có nguồn gốc từ y học, do S.Freud (1856-1939) một bác sĩ người Áo gốc Do Thái sáng lập. Đây là học thuyết không chỉ được áp dụng trong lĩnh vực y học mà còn được vận dụng trong nhiều lĩnh vực khác của đời sống xã hội trong đó có lĩnh vực nghệ thuật.
NGUYỄN DƯƠNG CÔN Từ lâu, Bản thể con người đã trở thành vấn đề cơ bản và sâu sắc nhất của mối quan hệ giữa văn học với hiện thực. Trong mối quan hệ đó, hiện thực với tư cách là đối tượng khám phá và trình diễn của văn học không còn và không phải chỉ là hiện thực cuộc sống như là dành cho các khoa học nhân văn và các nghệ thuật khác nữa.
LÝ VIỆT DŨNGThiền tông, nhờ lịch sử lâu dài, với những Thiền ngữ tinh diệu kỳ đặc cùng truyền thuyết sinh động, lại chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hóa Á đông xưa và thấm nhuần văn hóa Tây phương ngày nay nên đã cấu thành một thế giới Thiền thâm thúy, to rộng.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Theo tôi, cho đến nay, chúng ta chưa có những đánh giá xác đáng về hiện tượng Xuân Thu nhã tập: Cả trên phương diện lý thuyết lẫn thực tiễn sáng tác. Có phải là nguyên do, nhóm này đã bị khoanh vào hai chữ “BÍ HIỂM”?
PHI HÙNGĐỗ Lai Thuý đã từng nói ở đâu đó rằng, anh đến với phê bình (bài in đầu tiên 1986) như một con trâu chậm (hẳn sinh năm Kỷ Sửu?).Vậy mà đến nay (2002), anh đã có 4 đầu sách: Con mắt thơ (Phê bình phong cách thơ mới, 1992, 1994, 1998, 2000 - đổi tên Mắt thơ), Hồ Xuân Hương - hoài niệm phồn thực (Nghiên cứu thơ Hồ Xuân Hương từ tín ngưỡng phồn thực, 1999), Từ cái nhìn văn hoá (Tập tiểu luận, 2000), Chân trời có người bay (Chân dung các nhà nghiên cứu, 2002), ngoài ra còn một số sách biên soạn, giới thiệu, biên dịch...
PHI HÙNG(tiếp theo)
TRẦN ĐỨC ANH SƠNCuối tuần rảnh rỗi, tôi rủ mấy người bạn về nhà làm một độ nhậu cuối tuần. Rượu vào lời ra, mọi người say sưa bàn đủ mọi chuyện trên đời, đặc biệt là những vấn đề thời sự nóng bỏng như: sự sa sút của giáo dục; nạn “học giả bằng thật”; nạn tham nhũng...
HỒ VIẾT TƯSau buổi bình thơ của liên lớp cuối cấp III Trường Bổ túc công nông Bình Trị Thiên, dưới sự hướng dẫn của thầy Trần Văn Châu dạy văn, hồi đó (1980) thầy mượn được máy thu băng, có giọng ngâm của các nghệ sĩ là oai và khí thế lắm. Khi bình bài Giải đi sớm.
PHAN TRỌNG THƯỞNGLTS: Trong hai ngày 02 và 03 tháng 3 năm 2006, tại thủ đô Hà Nội đã diễn ra Hội nghị lý luận – phê bình văn học nghệ thuật toàn quốc. Trên 150 nhà nghiên cứu, lý luận, phê bình đã tham dự và trình bày các tham luận có giá trị; đề xuất nhiều vấn đề quan trọng, thiết thực của đời sống lý luận, phê bình văn học nghệ thuật hiện đại ở nước ta, trong đối sánh với những thành tựu của lý luận – phê bình văn học nghệ thuật thế giới.
NGUYỄN TRỌNG TẠO1. Con người không có thơ thì chỉ là một cái máy bằng xương thịt. Thế giới không có thơ thì chỉ là một cái nhà hoang. Octavio Paz cho rằng: “Nếu thiếu thơ thì đến cả nói năng cũng trở nên ú ớ”.
PHẠM PHÚ PHONGTri thức được coi thực sự là tri thức khi đó là kết quả của sự suy nghĩ tìm tòi, chứ không phải là trí nhớ. L.Tonstoi
TRẦN THANH HÀTrong giới học thuật, Trương Đăng Dung được biết đến như một người làm lý luận thuần tuý. Bằng lao động âm thầm, cần mẫn Trương Đăng Dung đã đóng góp cho nền lý luận văn học hiện đại Việt đổi mới và bắt kịp nền lý luận văn học trên thế giới.
PHẠM XUÂN PHỤNG Chu Dịch có 64 quẻ, mỗi quẻ có 6 hào. Riêng hai quẻ Bát Thuần Càn và Bát Thuần Khôn, mỗi quẻ có thêm một hào.
NGÔ ĐỨC TIẾNPhan Đăng Dư, thân phụ nhà cách mạng Phan Đăng Lưu là người họ Mạc, gốc Hải Dương. Đời Mạc Mậu Giang, con vua Mạc Phúc Nguyên lánh nạn vào Tràng Thành (nay là Hoa Thành, Yên Thành, Nghệ An) sinh cơ lập nghiệp ở đó, Phan Đăng Dư là hậu duệ đời thứ 14.
HỒ THẾ HÀLTS: Văn học Việt về đề tài chiến tranh là chủ đề của cuộc Toạ đàm văn học do Hội Nhà văn Thừa Thiên Huế tổ chức ngày 20 tháng 12 năm 2005. Tuy tự giới hạn ở tính chất và phạm vi hẹp, nhưng Toạ đàm đã thu hút đông đảo giới văn nghệ sĩ, nhà giáo, trí thức ở Huế tham gia, đặc biệt là những nhà văn từng mặc áo lính ở chiến trường. Gần 20 tham luận gửi đến và hơn 10 ý kiến thảo luận, phát biểu trực tiếp ở Toạ đàm đã làm cho không khí học thuật và những vấn đề thực tiễn của sáng tạo văn học về đề tài chiến tranh trở nên cấp thiết và có ý nghĩa. Sông Hương trân trọng giới thiệu bài Tổng lược và 02 bài Tham luận đã trình bày ở cuộc Toạ đàm.
TRẦN HUYỀN SÂM1. Tại diễn đàn Nobel năm 2005, Harold Pinter đã dành gần trọn bài viết của mình cho vấn đề chiến tranh. Ông cho rằng, nghĩa vụ hàng đầu của một nghệ sĩ chân chính là góp phần làm rõ sự thật về chiến tranh: “Cái nghĩa vụ công dân cốt yếu nhất mà tất cả chúng ta đều phải thi hành là... quyết tâm dũng mãnh để xác định cho được sự thật thực tại...
NGUYỄN HỒNG DŨNG"HỘI CHỨNG VIỆT NAM"Trong lịch sử chiến tranh Mỹ, thì chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh mà người Mỹ bị sa lầy lâu nhất (1954-1975), và đã để lại những hậu quả nặng nề cho nước Mỹ. Hậu quả đó không chỉ là sự thất bại trong cuộc chiến, mà còn ở những di chứng kéo dài làm ảnh hưởng trầm trọng đến đời sống Mỹ, mà người Mỹ gọi đó là "Hội chứng Việt Nam".
BÍCH THUNăm 2005, GS. Phong Lê vinh dự nhận giải thưởng Nhà nước về Khoa học với cụm công trình: Văn học Việt Nam hiện đại - những chân dung tiêu biểu (Nxb ĐHQG, H, 2001, 540 trang); Một số gương mặt văn chương - học thuật Việt hiện đại (Nxb GD, H, 2001, 450 trang); Văn học Việt hiện đại - lịch sử và lý luận (Nxb KHXH. H, 2003, 780 trang). Đây là kết quả của một quá trình nghiên cứu khoa học say mê, tâm huyết và cũng đầy khổ công, vất vả của một người sống tận tụy với nghề.
THÁI DOÃN HIỂU Trong hôn nhân, đàn bà lấy chồng là để vào đời, còn đàn ông cưới vợ là để thoát ra khỏi cuộc đời. Hôn nhân tốt đẹp tạo nên hạnh phúc thiên đường, còn hôn nhân trắc trở, đổ vỡ, gia đình thành bãi chiến trường. Tình yêu chân chính thanh hóa những tâm hồn hư hỏng và tình yêu xấu làm hư hỏng những linh hồn trinh trắng.
NGUYỄN THỊ MỸ LỘCLà người biết yêu và có chút văn hóa không ai không biết Romeo and Juliet của Shakespeare, vở kịch được sáng tác cách ngày nay vừa tròn 410 năm (1595 - 2005). Ngót bốn thế kỷ nay Romeo and Juliet được coi là biểu tượng của tình yêu. Ý nghĩa xã hội của tác phẩm đã được thừa nhận, giá trị thẩm mĩ đã được khám phá, hiệu ứng bi kịch đã được nghiền ngẫm... Liệu còn có gì để khám phá?