Jesus trong tiểu thuyết "Cám dỗ cuối cùng của Chúa"

08:24 17/01/2014

TRẦN HUYỀN TRÂN

Có lẽ, Cám dỗ cuối cùng của Chúa là cuốn tiểu thuyết nói về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo nhất?

Nikos Kazantzakis (1883 - 1957) - nhà văn Hy Lạp đã biến người đàn bà tội lỗi trong Kinh thánh thành một người tình say mê của Đức Jesus. Đó là Magdalene - nàng là mối tình đầu tiên và là vợ của Jesus. Nàng hiện diện trong tác phẩm như một nỗi đau và niềm đam mê cuộc sống trần tục. Cuốn tiểu thuyết gây phẫn nộ đối với công chúng mộ đạo, chính là những tình tiết trong mối quan hệ giữa Jesus và người đàn bà tội lỗi này.

Tuy nhiên, xin được phép biện hộ cho Nikos Kazantzakis: tiểu thuyết chỉ là sự giả định. Một giả định về sự tồn tại của Jesus ở cõi trần tục. Mặt khác, trong lời giới thiệu cuốn tiểu thuyết, tác giả đã nói về chủ đích sáng tạo của mình: “Tôi tin chắc rằng tất cả những người tự do khi đọc cuốn sách này, sẽ tràn ngập tình yêu thương hơn bao giờ hết, tình yêu mến Chúa”(1). Đó là bằng cớ để sau này, bộ phim về tiểu thuyết: Cám dỗ cuối cùng của Chúa đã vượt qua vụ kiện tụng tại Viện Tòa án tối cao của Mỹ và đến được với công chúng.

Magdalene - người đàn bà tội lỗi trong Kinh thánh

Như chúng ta biết, trong Tân ước, Mary Magdalene là một người phụ nữ mà Chúa Jesus rất yêu quý. Người đời thường gọi nàng bằng những tên khác nhau như: Marie - Magdeleine, Marie de Magdala. Nàng có mặt bên Jesus trong những sự kiện quan trọng: lúc Chúa bị đóng đinh trên thập giá ở đồi Gol- gotha cho đến khi phục sinh và trao lại nàng những lời răn dạy tin cẩn. Theo Tân ước, các môn đồ của Jesus chép lại, Magdalene là một người con gái tội lỗi, ở thị trấn Magdala. Nàng có mái tóc rất dài và dĩ nhiên là xinh đẹp, quyến rũ. Magdalene đã bị thiên hạ nguyền rủa vì tội cám dỗ đàn ông. Được Jesus cứu chuộc tội lỗi, Magdalene hoàn lương. Nàng đi theo Jesus trong suốt cuộc hành trình thuyết giảng đức tin. Một vài chi tiết trong Tân ước cho thấy sự gần gũi giữa người phụ nữ tội lỗi này với Đức Jesus. Rằng, Magdalene từng lấy nước mắt mà tưới ướt chân Jesus, lấy mái tóc lau rồi hôn lên chân Người (xem Tân ước, Tin mừng theo thánh Lu-ca, tr. 1748)(2).

Rõ ràng, Tân ước đã hé lộ tình cảm sâu sắc của Magdalene đối với Đức Jesus - dù đó là thứ tình cảm tôn kính, ngưỡng mộ và mang ơn. Tuy nhiên, Tân ước không nói rõ Magdalene quan hệ với Jesus như thế nào? Chỉ biết, các tín đồ có phần ghen tị với những ân sủng mà Chúa ban tặng nàng. Điều này đã được các danh họa thể hiện qua các tác phẩm nổi tiếng. Sau này, nàng được người đời tôn thờ như một Thánh nữ.

Có thể nói, đây là người đàn bà gây nhiều tranh cãi nhất đối với hậu thế, cả phái chính thống lẫn phi chính thống. Chính những giả định mập mờ của dư luận về nhân vật này, đã tạo một khoảng trống cho tiểu thuyết mặc sức tưởng tượng.

Magdalene mối tình đau khổ, đam mê của Jesus trong Cám dỗ cuối cùng của Chúa

Magdalene đã bước vào tác phẩm của Nikos Kazantzakis như một người tình đam mê - cả trong đời thực lẫn giấc mơ. Tác giả đã hợp nhất Magdalene vào Eva - người đàn bà đầu tiên giúp loài người ý thức được bản thể của giới tính và niềm hoan lạc trần tục. Jesus và Magdalene đã trải qua tình yêu say mê, vụng dại của tuổi ấu thơ. Ngay khi còn là một đứa trẻ, qua Magdalene, Jesus đã cảm nhận được giới tính đàn ông - điều mà trong Kinh thánh không hề nói đến. Hai mươi tuổi, Jesus quyết định cưới Magdalene làm vợ, nhưng bị Chúa ngăn cản. Magdalene bước vào con đường làm điếm để trả thù sự bội ước của Jesus. Nàng chôn vùi thân xác trong vũng bùn nhơ nhuốc ở thị trấn Magdala. Sau này, trong giấc mơ của Jesus trên thập giá, nàng trở thành vợ, mỹ mãn trong niềm hoan lạc tột cùng…

Hình tượng người đàn bà - gái điếm này hiện diện từ đầu đến cuối tác phẩm, song hành với cuộc đời Jesus. Nàng hiện thân cho niềm đam mê thân xác và những cám dỗ của lạc thú. Từ tuổi ấu thơ, Magdalene đã xuất hiện như một định mệnh trong cuộc đời của Jesus. Cả hai đã phạm phải “trò chơi ăn trái cấm”, bằng việc áp đôi bàn chân trần vào nhau để cảm nhận sự ấm áp của thân xác. Với sự kiện nếm trải tính dục tuổi ấu thơ này, Magdalene đã trở thành nỗi ám ảnh đớn đau trong suốt cuộc hành trình tìm kiếm đức tin của Jesus. Ngay cả khi quyết định lựa chọn con đường Thiên Chúa, Magdelene vẫn ngự trị trong trái tim của Ngài “Anh thấy nàng bằng ngàn cái hôn thầm kín… trước mặt anh. Giấu trong ngực nàng là mặt trời và mặt trăng… ngày và đêm lên xuống sau áo nịt trong suốt của nàng” (3, tr. 82). Có thể nói, khó khăn và đớn đau nhất của Jesus trong cuộc vật lộn giữa bản thể và tâm linh chính là Magdalene. Còn Magdalenle? Nàng dập vùi thân xác trong cay đắng để kiếm tìm sự ngọt ngào của tình yêu, nhưng vô vọng. Mãi mãi Jesus vẫn là nỗi đau và niềm khao khát của nàng…

Nếu như văn học có một quyền hạn đặc biệt, thì đó chính là giúp người đọc thỏa mãn những ước muốn bị tuyệt vọng trong thực tại. Bằng thủ pháp kỳ ảo, thông qua giấc mơ trên thập tự, Magdalene và Jesus được hạnh phúc bên nhau. Trong nỗi đau đớn bị hành xác, quỷ satan đã bày ra trước mắt Jesus một thiên đường ở trần tục đầy hoa thơm, mật ngọt. Magdalene xuất hiện với vòng hoa chanh thơm ngát, quyến rũ như một con bò cái ú mọng, trinh nguyên. Jesus đã không cưỡng được niềm ham muốn khoái lạc: “Magdalene, Magdalene yêu dấu, ôi, bao nhiêu năm ta đợi chờ giờ phút này! Ai đã nhảy vào giữa chúng ta và không cho ta tự do? - Chúa?. Jesus ôm nàng, ngửa mặt nàng ra sau và hôn lên miệng nàng… Họ nằm xuống dưới một cây chanh… Hoa chanh rơi trên hai thân hình lõa thể. Một con rắn mở đôi mắt tròn bất động nhìn họ… Magdalene ôm chặt người đàn ông, ghì sát thân thể ấy vào thân thể nàng” (3, tr. 552 - 553). Có thể nói, hiếm có cuốn tiểu thuyết nào lại viết về khoái lạc trần tục của Jesus một cách táo bạo như vậy.

Giọt máu của Jesus hay là trí tưởng tượng của Nikos Kazantzakis về một dòng họ Christ trong đời sống thế tục?

Trong tác phẩm, Nikos Kazantzakis đã để Magdalene chết dưới gươm của Saul - khi nàng đang mang thai. Nhân vật Saul - tức là thánh Paul trong Kinh thánh, là người truyền tụng tư tưởng Ki tô giáo, sau khi Jesus qua đời(4). Bằng thủ pháp kỳ ảo, tác giả để giọt máu của Jesus được đầu thai vào Mary. Và cùng với chị em Mary và Marthas, Jesus sinh con đàn cháu đống…

Chúng ta đặt câu hỏi: liệu Nikos Kazantzakis đã đọc Phúc âm theo Mary Magdaleine?(5) Đây là tác phẩm, mà theo các nhà nghiên cứu Kinh thánh, Magdalene đã ghi lại đoạn đời gần gũi của nàng bên Jesus. Tra cứu về sự nghiệp của Nikos Kazantzakis, chúng ta thấy, ông đã từng bỏ ra một thời gian khá lâu để nghiên cứu Phúc âm. Vào năm 1914 ông đã đến rặng núi thánh Mont Athos - nơi tập trung nhiều tu viện lớn của Hy Lạp để tìm hiểu về Jesus và hoàn thành vở kịch Christ. Nikos Kazantzakis lại là người thông thạo nhiều ngoại ngữ, nhất là tiếng Hy Lạp cổ, để có đủ điều kiện thọc sâu vào kho tư liệu trong thâm cung bí sử của các tu viện. Tất nhiên, đó chỉ là sự nghi vấn.

Về phả hệ một Jesus, sau này cũng đã được Dan Brown đề cập trong Mật mã Da Vinci. Rằng, khi Jesus bị đóng đinh trên thập tự thì Magdalene đã mang thai. Để bảo vệ giọt máu của Jesus, nàng đã trốn sang Pháp, dưới cái tên là Gaul và sinh hạ một bé gái là Sarah. Đó là dòng dõi của vua Do Thái, dòng máu hoàng gia. Bởi vậy, tại Pháp bà được người Do Thái che chở và sau này tôn thờ như một Thánh Mẫu. Đặc biệt, vào thế kỷ V, con cháu của Jesus đã hôn phối với dòng giống hoàng gia Pháp và tạo nên một Cây hệ phả Jesus Chrits nổi tiếng - hoàng gia Merovingien ở Paris. Tòa thánh La mã đã cố tình bưng bít sự thật này. Họ ra sức triệt hạ con cái của Magdalene, vì sợ rằng, bí mật của Jesus sẽ trần trụi dưới ánh sáng. Họ đã lập ra Hội Opus Dei với nhiệm vụ tiêu hủy những tư liệu liên quan đến Jesus. Các cuộc Thập tự chinh cũng không nằm ngoài mục đích triệt hạ người Do Thái - những dấu vết dính dáng đến huyết thống của Jesus(6). Bởi vì, theo Tòa thánh, đó là sự xúc phạm niềm tin về một Đấng cứu thế - người chưa từng ăn nằm với bất kỳ phụ nữ nào ở trần gian. Đó là lập luận của Dan Brown trong cuốn tiểu thuyết trinh thám - từng gây sự chú ý đặc biệt của các nhà nghiên cứu thần học ở châu Âu trong mấy năm qua.

Liệu Dan Brown có ảnh hưởng Nikos Kazantzakis trong Cám dỗ cuối cùng của Chúa? Kazantzakis viết 1952, xuất bản 1955 tại Mỹ, chuyển thể thành phim vào năm 1988, bởi đạo diễn Martin Scorsese. Mật mã da Vinci viết 2003 và chuyển thể thành phim 2006 bởi đạo diễn Ron Howard. Hai tác phẩm đều cuốn hút người đọc và gây xôn xao dư luận về Đấng Kitô trong mối quan hệ với Magdalenen - vốn từng bị giáo hội xem là một gái điếm. Ở đây, chúng ta không bàn về biệt tài tiểu thuyết của hai cây bút lừng danh này. Dan Brown viết theo dạng tiểu thuyết trinh thám - lịch sử; Nikos Kazantzakis viết theo dạng tiểu thuyết tâm lý - luận đề. Nhân vật Magdalenne trong Mật mã da Vinci chỉ được khắc họa thông qua sự truy tìm tội phạm - kẻ giết người liên quan đến bí mật một dòng họ. Còn Magdalene của Nikos Kazatzakis là một nhân vật cụ thể, sống động, bằng xương, bằng thịt, với ngoại hình quyến rũ, nội tâm sâu thẳm, đa chiều. Và trên hết, nàng đã sống hết mình với tình yêu và khoái lạc trần tục.

Như vậy, người đàn bà Magdalene từ trong Kinh thánh đã bước vào lãnh địa của văn chương như một nhân vật vừa huyền thoại vừa xác thực lịch sử. Từ một gái điếm trở thành một thánh nữ, Magdalene là đối tượng bàn cãi không bao giờ dứt của công chúng. Người đàn bà này là chứng từ quan trọng nhất để giúp hậu thế soi sáng phần bản thể của Đức Jesus.

Magdalene, nàng có thực, hay chỉ là hư ảo? Đó vẫn là một câu hỏi khó có lời giải đáp.

T.H.T
(SH299/01-14)

.........................................................
(1) Lời mở đầu của Nikos Kazantzakis: “Je suis sur que tout homme libre qui lira ce livre plein d’amour aimera plus que jamais, mieux que jamais, le Christ”, www.babelio.com/livres/Kazantzakis-La-derniere-tentation-du-Christ.
(2) Kinh Thánh (Cựu ước Tân ước), Dẫn nhập và chú thích của Bernad Hurault và Louis Hurault, Nxb Hà Nội, 2006.
(3) Nikos Kazantzakis, La Dernière tentation du Christ, Éditions Pocket, 1988 (Bản tiếng Việt, Cám dỗ cuối cùng của Chúa, Bích Phượng dịch từ bản tiếng Anh), Nxb. Đồng Nai, 1988).
(4) Thánh Paul, tức Phaolô, người Do Thái, thuộc dòng Benjamin, mang quốc tịch La Mã; sinh vào thập niên đầu công nguyên, tại thành Tarsus, mất tại Roma thời Nero. Thánh Paul là một học giả nổi tiếng, uyên thâm về văn chương, triết học, Kinh thánh. Lúc đầu, theo đạo Do Thái truyền thống của người Israel, sau khi Jesus mất, ông lại cổ xúy và truyền tụng đạo Ki tô.
(5) Évangile de Maria Magdalene, http://nostredame.unblog.fr
(6) Sur le chemin de Marie Madeleine, www.antropologia.cat; L’Opus Dei et le Da Vinci Code, http://www.opusdei.org









 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • YURI BONDAREVTên tuổi của nhà văn Nga Yuri Bônđarép rất gần gũi với bạn đọc Việt Nam qua những tác phẩm nỗi tiếng của ông đã được dịch ở ta vào thập kỷ 80 như: "Các tiểu đoàn xin chi viện", "Tuyết bỏng", "Bến bờ", "Lựa chọn", "Trò chơi"... Là một trong những nhà văn Xô Viết hàng đầu miêu tả hùng hồn và chân thực chủ nghĩa anh hùng cách mạng của quân và dân Liên Xô trong cuộc chiến tranh vệ quốc thần thánh chống phát xít Đức 1941- 1945, Bônđarép đã được phong Anh hùng lao động xã hội chủ nghĩa, được tặng giải thưởng Lênin, các giải thưởng Quốc gia, giải thưởng Lép Tônxtôi và M.Sôlôkhốp, giải thưởng toàn Nga "Xtalingrát"...

  • TRẦN ĐÌNH SỬVăn học Trung Quốc trong cơ chế thị trường đã có những biến đổi khá lớn. Theo các tác giả của sách Văn học Trung Quốc thế kỷ XX xuất bản tại Quảng Châu năm 1988 có thể nắm được một đôi nét diện mạo, chứng tỏ văn học Trung Quốc không còn có thể tồn tại theo phương thức cũ. Cơ chế thị trường đã làm cho nhà văn và nhà phê bình phải suy tính lại về sách lược sinh tồn và phương hướng phát triển nghề nghiệp.

  • ĐOÀN TUẤNThạch Lam qua đời cách đây đã hơn nửa thế kỉ. Ông để lại cho chúng ta một khối lượng tác phẩm không lớn nhưng chúng đã trở thành một mẫu số vĩnh hằng trong văn học Việt Nam. Tiếc rằng chúng ta đã không thể lưu giữ một bức chân dung nào của Thạch Lam. Thậm chí mộ ông được chôn cất nơi nào, cũng không ai biết.

  • NHẬT CHUNG       (Đọc bài thơ XÓM LỤT của anh Phạm Xuân Phụng)Anh Phụng là bác sĩ ở Bệnh viện Trung ương Huế. Tôi tìm hết trong tuyển tập HAI THẬP KỶ THƠ HUẾ, chỉ duy nhất bài thơ này viết về cảnh lụt lội hàng năm vẫn xảy ra ở mảnh đất nghèo khó. Trong những ngày đau buồn, khi nước vừa rút, trắng bợt trước mắt tôi những bài thơ tình èo uột nỉ non ẻo lả, và đứng dậy trước mắt tôi một bài thơ XÓM LỤT.

  • PHONG  LÊBến không chồng - Giải thưởng Hội Nhà văn năm 1991 đưa nhanh Dương Hướng lên một vị trí cao trong thành tựu văn học Đổi mới. Không thuộc đội ngũ “tiền trạm” xuất hiện từ đầu những năm 80 như Ma Văn Kháng, Nguyễn Khải, Nguyễn Minh Châu và Nguyễn Mạnh Tuấn (sinh năm 1948) - người cùng thế hệ với anh (sinh 1949), đến tuổi 40 mới bắt đầu trình làng với tập truyện ngắn Gót son (1989), thế mà chỉ 2 năm sau, Dương Hướng bỗng trở thành một “tên tuổi” với Bến không chồng, góp mặt cùng Mảnh đất lắm người nhiều ma của Nguyễn Khắc Trường, Nỗi buồn chiến tranh của Bảo Ninh làm nên một bộ ba sáng giá trong văn học mở đầu thập niên 90, năm năm sau khởi động của công cuộc Đổi mới.

  • HÀ QUANG MINHLTS: Liệu có phải văn hóa chỉ đơn thuần là văn hóa hay nói cách khác là chỉ chứa đựng các yếu tố văn hóa không? Câu trả lời chắc chắn là không. Văn hóa mang cả trong nó tính chính trị và kinh tế. Trong khuôn khổ bài viết này, chỉ nhắc tới tính kinh tế trong văn hóa mà thôi nhưng hy vọng nó sẽ đóng góp nhiều cho công cuộc xây dựng một xã hội văn minh hơn, công bằng hơn.

  • ĐỖ LAI THÚYVề Kinh Bắc với những hội hè, chùa chiền, với đồng chiều cuống rạ, dây bìm bìm, bí lông tơ, giun đất, con gà trụi, châu chấu.. làm người đọc nhớ đến dòng thơ viết về nông thôn, nhất là thơ Nguyễn Bính. “ Trong các nhà thơ cùng thời viết về nông thôn như Bàng Bá Lân, Anh Thơ, Đoàn Văn Cừ... có lẽ chỉ có Nguyễn Bính là nhận thức sâu sắc được sự thay đổi của thôn quê trước “ cuộc xâm lăng” của đô thị.

  • TRẦN VĂN TOÀN - NGUYỄN XUÂN DIÊN1. Ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới là một vấn đề từ lâu đã được đề cập tới. Ngay từ năm 1942, Hoài Thanh- Hoài Chân trong Thi nhân Việt Nam mặc dù giành nhiều trang để miêu tả ảnh hưởng của thơ Pháp (đặc biệt là trường phái Tượng trưng) nhưng các ông đã trân trọng và có một chút hứng thú đặc biệt về ảnh hưởng của Thơ Đường đối với Thơ Mới (điều này được bộc lộ qua công phu miêu tả, khảo cứu và cụ thể hơn từ chính số lượng trang viết). Khi phân chia các dòng mạch Thơ Mới, Hoài Thanh- Hoài Chân nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng của thơ Pháp, dòng mạch mang tính cách Việt, đồng thời cũng nói tới dòng mạch chịu ảnh hưởng từ Đường thi.

  • HOÀNG NGỌC HIẾN…Trong thời kỳ đổi mới xuất hiện nhiều tác phẩm cảm hứng phê phán rất mạnh. Có những quan điểm và giọng điệu phê phán rất khác nhau: xót xa và lo thương, căm uất và hằn học, tỉnh táo và điềm đạm... Cảm hứng phê phán mang tinh thần hài hước khoan hòa sẽ tạo một vị trí đặc biệt cho Nguyễn Việt Hà trong văn xuôi Việt Nam đương đại…

  • ALEXANDER GENISTrên thị trường Mỹ đã xuất hiện những cuốn sách điện tử đầu tiên. “Softbook” - một đĩa điện tử có màn hình bọc da. Sức chứa - 100 000 trang, trọng lượng - 15 kg, giá cả - 300 đôla cộng 10 đôla kết nối mỗi tháng. “Paketbook” giá 500 đôla, nhưng đi kèm với nó phải có máy tính cá nhân. “Dedicate Reader” - một sổ tay điện tử. Nó giống như một cuốn sách thực sự, có một màn hình kép chứa các bản vẽ, bản đồ, sơ đồ, bảng biểu. Giá là 1500 đôla. Như kinh nghiệm cho thấy, không ai thích đọc văn bản theo màn hình, vì thế tại viện nghiên cứu “Media-lab” người ta đang tìm cách chế tạo thứ “mực điện tử” - những cái bao hết sức nhỏ có thể tùy theo cường độ và hướng của dòng điện sắp xếp lại với nhau để tạo thành văn bản. Theo cách đó, gần như loại sách bằng giấy thông thường có thể được in lại - thay một nội dung này bằng một nội dung khác. Tờ “New York Times” viết: “Ngay giờ đây đã thấy rõ sách điện tử là điều tất yếu. Nếu như không phải là sự thay thế sách in, thì cũng là sự luân phiên nó”. (Theo báo chí)

  • TRẦN ANH PHƯƠNGCầm trên tay tập thơ "Người hái phù dung" của Hoàng Phủ Ngọc Tường tôi như đọc với chính mình giữa đêm khuya lặng lẽ bên ngọn đèn. Cảm nhận đầu tiên về thơ anh không phải thơ để đọc giữa chốn đông người hay ở trong hội trường lớn, thơ anh chỉ đến với người đọc khi chỉ còn lại một mình đối diện với chính mình, tìm lại mình trong những con chữ lan toả như từng đợt sóng, xâm chiếm choáng ngợp lòng người...

  • TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

  • HUYỀN SÂM - NGỌC ANH 1. Umberto Eco - nhà ký hiệu học nổi tiếng.Umberto Eco chiếm một vị trí rất đặc biệt trong nền lý luận đương đại của Châu Âu. Ông là một triết - mỹ gia hàn lâm, một nhà ký hiệu học uyên bác, một tiểu thuyết gia nổi tiếng và là giáo sư danh dự của trường Đại học Bologne ở Italia. Tư tưởng học thuật của ông đã tác động mạnh mẽ, tích cực đến đời sống trí tuệ của sinh viên và giới nghiên cứu trong suốt nửa thế kỷ qua. Ông có mặt trong danh sách của hai mươi nhà tư tưởng đương đại lớn nhất thế giới, và cũng là ứng cử viên thường trực của Viện Hàn lâm Thụy điển về việc bình chọn giải Nobel văn học.

  • ĐỖ NGUYỄN VIỆT TƯ         (Nhân đọc thơ Hoàng Vũ Thuật)Trong con người cũng như trong vũ trụ luôn luôn hiện diện một mâu thuẫn bất biến, nhờ cái khối mâu thuẫn này mà nó tồn tại, phát triển và trở nên thống nhất. Con người luôn đi tìm chính mình trong một cuộc phiêu lưu vô định, không bao giờ bằng lòng với những cái đã có, bản ngã lúc nào cũng thôi thúc sáng tạo để tìm ra cái mới. Nhà thơ luôn đồng hành với cuộc phiêu lưu của những con chữ để đi đến những miền đất lạ, những vùng cảm xúc.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LANSau mấy tháng mưa tầm tã và lạnh thấu xương, qua đầu tháng chạp âm lịch, toàn khu Hạ Lào bắt đầu tạnh. Mặt trời lại hiện ra đem ánh sáng sưởi ấm những khu rừng bạt ngàn từ Trường Sơn lượn xuống. Ở các suối nước không còn chảy như thác đổ, ở Xê Công dòng nước cũng đã trở lại hiền hòa. Các con đường lớn, đường nhỏ bắt đầu khô ráo.

  • TRẦN ĐƯƠNGTôi được làm quen và có quan hệ cởi mở với nhà thơ Tố Hữu từ mùa thu năm 1973, sau khi ông dẫn đầu Đoàn đại biểu Đảng ta đi dự Đại hội đại biểu Đảng Cộng sản Đức (DKP) họp tại thành phố cảng Hăm-bugr). Từ  miền Tây, ông sang Béc-lin, Cộng hòa Dân chủ Đức, theo lời mời của Bộ chính trị Đảng xã hội chủ nghĩa thống nhất Đức (SED) với mục đích thăm, nghiên cứu và trao đổi về công tác tư tưởng giữa hai Đảng.

  • TRẦN THÁI HỌCĐến nay, vấn đề giá trị nghệ thuật không còn là vấn đề thời sự được nhiều người trong giới phê bình quan tâm bàn cãi. Sự lắng lại trong không khí phê bình về vấn đề này, vốn đã trải qua một thời kì tranh luận sôi nổi kéo dài hàng chục năm trên văn đàn gắn liền với những quan điểm triết học và mỹ học khác nhau, thậm chí đối lập nhau.

  • HÀ VĂN THỊNH Trên trái đất này, có lẽ chỉ có các nhà thơ mới quan niệm cuộc đời là một trò chơi. Ngay cả Thánh Kinh, khi bàn về lẽ khởi - tận của kiếp người cũng phải than: thân cát bụi trở về cát bụi. Lời nguyền đó là tiếng kêu bi thương từ sâu thẳm của hàng triệu năm đau đớn để sống và, để chết. Từ ngày đầu tiên sinh ra loài người, Adams  đã phải dắt díu Éva trốn chạy khỏi Thiên Đường trong nước mắt và uất hận; đau đớn và tuyệt vọng; cô đơn và sỉ nhục... Đó là những điều ngăn cản việc biến cuộc đời thành một trò chơi.

  • NGUYỄN THAM THIỆN KẾ... Đức Phật, nàng Savitri và tôi sẽ là cuốn tiểu thuyết quan trọng nhất của Hồ Anh Thái, đồng thời nó sẽ giữ ngôi vị lâu dài là tiểu thuyết duy nhất trong văn học Việt lấy cuộc đời giáo chủ Phật giáo làm nguồn cảm hứng. Và sẽ còn lâu lắm văn chương Việt mới có một nhà văn đủ tự tin cũng như tài năng để động vào bàn phím viết về đề tài này. Nó cũng sẽ là thời gian cộng trừ 20 năm, nếu như nhà văn nào đó bây giờ mới bắt đầu tìm hiểu văn hóa Ấn...

  • HOÀNG NGỌC HIẾNNhan đề của tập thơ khiến ta nghĩ Trần Tuấn đặc biệt quan tâm đến những ngón tu từ, mỹ từ của thi ca, thực ra cảm hứng và suy tưởng của tác giả tập trung vào những vấn đề tư tưởng của sự sáng tạo tinh thần: đường đi của những người làm nghệ thuật, cách đi của họ và cả những “dấu chân” họ để lại trên đường.