Inrasara nhà nghiên cứu văn hoá Chăm (1)

10:13 16/10/2009
TRẦN THIỆN KHANH Inrasara nhập cuộc văn chương từ rất sớm. Ngòi bút của Inrasara chạm được vào những vấn đề cốt tử của nghệ thuật. Inrasara đã sống thực sự với đời sống văn chương đương thời.

(Ảnh: izon.vn)

Nói tới Inrasara mà chỉ nói đến thơ thì chưa đủ, mặc dù thơ của Inrasara khá hiện đại. Nói đến Inrasara mà chỉ nói đến dịch thuật hoặc đề cập tới phê bình văn học, thì hẳn vẫn còn thiếu sót, mặc dù tiểu luận của Inrasara sắc sảo và đầy tính lí luận. Chúng tôi muốn nhấn mạnh đến một chân dung khác: chân dung Inrasara- nhà nghiên cứu văn hoá Chăm.

Cũng xin nói ngay: mệnh đề Inrasara - nhà nghiên cứu văn hoá Chăm, được đặt ra ở đây, vừa có ý nghĩa chuyên môn vừa có tính ước lệ. Chuyên môn, bởi danh xưng ấy đã gọi ra cái vùng thâm canh của Inrasara. Ước lệ, vì thực ra cái phông nền văn hoá Việt, ở anh cũng rất chắc, thậm chí có thể nói tài hoa. Có thể tìm những điều ấy trên những trang viết đầy tâm huyết của anh.

Sáng tác của Inrasara có thể che lấp được những định kiến hẹp hòi, hoặc những mĩ cảm cũ kĩ. Anh dám vượt mình với vẻ ngạo nghễ cần có, dám vượt qua những lực cản bên ngoài một cách đàng hoàng. Inrasara góp công không nhỏ vào công cuộc đổi mới văn học, đổi mới cách tư duy và lối viết. Inrasara đã làm thức dậy linh hồn Chăm, văn hoá Chăm. Nhiều công trình về văn hoá Chăm của anh đã được giải thưởng cao quí.

Inrasara sinh năm 1957 tại làng Chakleng, một làng Chăm duy nhất có tên trên bi kí cổ Chămpa. Cho nên Inrasara được hít thở không khí Chăm từ thuở thiếu thời,được tắm gội trên con sông Chăm đã ngàn năm tuổi. Văn hoá Chăm thấm vào Inrasara một cách tự nhiên.

Trong tâm thức của Sara có một dòng sông Chăm ngày đêm thao thiết chảy, thao thức với sự lở bồi của văn hoá Chăm truyền thống. Inrasara tâm sự: có biết bao con sông Chăm nuôi nấng, vỗ về tâm hồn tôi, “có biết bao con sông, mương đầm khuất đi không còn lại dấu vết, nhưng tên của chúng, sức sống của chúng vẫn vang vang ở bề đáy tâm thức tôi”. Sức sống ấy, nguồn sống ấy đã dồn tụ vào hình tượng sông Lu ở vùng thơ Sara rất đỗi thân thiết.

Tôi chợt nghĩ thế này: mỗi một nhà thơ có lẽ nên được tắm gội trên một dòng sông nào đó. Nói cụ thể hơn: tên tuổi của anh ta, sự nghiệp của anh ta cần phải gắn bó với dòng sông. Thậm chí phải giống với hành trình vươn ra biển cả của sông nước. Chẳng hạn Nguyễn Khắc Hiếu gắn với sông Đà; Hoàng Cầm về với sông Đuống, Dương Thuấn hát với sông Năng, Đỗ Trung Lai mê đắm một khúc “sông Cầu”, Nguyễn Tuân trấn giữ Đà giang đỏng đảnh, Hoàng Phủ Ngọc Tường cai quản sông Hương thơ mộng... còn thi phận Sara thì phải gắn với sông Lu.

Sara gắn bó với sông Chăm, chung thủy với sông Chăm. Năm 25 tuổi, Sara được mời tham gia Biên soạn sách chữ Chăm ở Ninh Thuận. Năm năm sau, Sara thôi việc để được tự do nghiên cứu văn hoá. Những tưởng ngòi bút của Sara được thăng hoa tung tẩy sau sự biến ấy, ngờ đâu chỉ mấy năm tiếp, Sara lại bị “lôi vào” Trung tâm nghiên cứu Việt Nam- Đông Nam Á để nghiên cứu văn hoá Chăm.

Cuộc đời của Sara có nhiều thăng trầm. Trước năm 90, có một Sara vừa vô định vừa quẩn quanh, vừa bấp bênh vừa “trì đọng”: đi học rồi bỏ học; tham gia nghiên cứu rồi thôi việc để được tự do; được tự do xê dịch bỗng lại bị gọi về làm công việc nghiên cứu,… Chúng ta chỉ có Sara- một nhà nghiên cứu Chăm thực sự khi anh cởi bỏ được mọi trói buộc để lang thang trên các làng Chăm. Chúng ta chỉ có Sara - nhà thơ Chăm khi anh biết tiếp thu ngôn ngữ Chăm, biết mở rộng tâm hồn đón nhận ngọn gió Chăm tràn trề sinh lực.

 Có lẽ không phải chỉ Sara mới yêu mến văn hoá Chăm, mà văn hoá Chăm đã chọn Sara từ tiền kiếp.

Sara “có một tập thơ sáng tác bằng tiếng Chăm và một bộ sưu tập văn học cổ điển Chăm” từ hồi còn đi học. Năm 1975 Sara khởi thảo Từ điển Việt - Chăm. Năm 1992, anh hoàn thành bộ sách Văn học Chăm. Năm 1984 biên soạn Từ vựng học tiếng Chăm. Năm 1994, viết xong Văn học Chăm I- Khái luận. Năm 1995, in Văn học dân gian Chăm. Sau cuốn Văn học Chăm II- Trường ca (1995), Inrasara công bố tập tiểu luận Các vấn đề Văn hoá xã hội Chăm (1999). Năm 2003, Inrasara cho in cuốn Văn hoá xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại… Càng ngày công trình của Inrasa càng dày dặn. Tất thảy sự kiện này, đều chứng tỏ bút lực của Inrasara khá dồi dào, sức viết, sức nghĩ, sức đi... của anh rất lớn. Nếu kể hết tác phẩm nghiên cứu, sưu tầm, hoặc các sáng tác đề cập đến văn hoá Chăm của Inrasara cho đến lúc này lên tới vài ngàn trang sách. Nói đến Inrasara nên hình dung về một “vùng Chăm” cổ kính…

 Sáng tác và nghiên cứu ở Inrasara luôn song hành với nhau. Có thể nói chúng đã hoà vào nhau, chuyển hoá cho nhau. Cảm hứng sáng tác thôi thúc Inrasara sưu tầm, nghiên cứu. Công việc nghiên cứu văn hoá Chăm ở Sara đơm hoa rồi kết thành những trái thơ ngọt ngào.

Inrasara nói: bên cạnh việc sưu tầm, nghiên cứu, “tôi phải nhìn sông Lu từ một chiều kích khác, đến với sông Lu bằng những bước đi khác”. Nàng thơ hiểu tâm nguyện ấy của Inrasara nên xuất hiện kịp thời. Ả thơ tự nguyện thực hiện chức năng mang chở văn hoá. Thơ Inrasara kết đọng vẻ đẹp của văn hoá Chăm. Thơ của Inrasara biểu hiện cái nhìn đầy suy tư về con người Chăm, tâm tính Chăm. Có một “vườn Chăm” trong thơ Inrasara.

Inrasara có một quan niệm rất đẹp về thiên chức của mỗi con dân Chăm. Với anh, người Chăm phải tự gánh trách nhiệm khai vỡ văn hoá của dân tộc mình. Người Chăm phải tự lực khi xây dựng văn hoá. Quan niệm đó trở thành niềm tin và lí tưởng thôi thúc Inrasara hành động. Inrasara đã cứu nền văn hoá, văn học Chăm khỏi nguy cơ thất truyền. Anh tự mày mò học chữ Chăm cổ, rồi rong ruổi khắp các làng bản để sao chép lại những vốn Chăm vô cùng quí giá. Inrasara không cần kĩ thuật hiện đại nào, mà cũng làm được thứ “ngọc Chăm” thực thụ.

Hành trình về nguồn của Inrasara có thể ví với sự lãng du trong văn hoá dân tộc không? Tôi nghĩ không nên qui về mối ấy. Bởi lẽ trách nhiệm công dân của anh đã bộc lộ rõ ràng từ điểm xuất phát. Inrasara dấn thân vào văn hoá Chăm với nhiều vui buồn rất đỗi trong sáng. Lúc nhỏ tuổi Sara đã khao khát khám phá khuôn mặt dân tộc mình. Khi thiếu thốn, Sara vẫn hăm hở lên đường thực hiện sứ mệnh thiêng liêng. Vào giai đoạn khó khăn chồng chất, vậy mà Sara vẫn “nhiệt tình đến với chữ nghĩa cha ông”. Nếu không “mê ngôn ngữ Chăm và cái âm vang của lời”, chắc hẳn Inrasara đã rời bỏ cuộc chơi từ lâu lắm.

 Thật khó hình dung nổi, “sự thóc mách về văn hoá” của Inrasara đặc biệt đến nỗi - mỗi khi thấy bà con Chăm chửi bới nhau, anh liền chạy tới nghe, nghe cho hết trận cãi ấy. Anh bảo đến đó được “nghe âm vang của lời, rồi ghi”. Theo sự quan sát của tôi, thì chỉ mình Inrasara mới biết lắng lại để nghe “các tục ngữ, thành ngữ Chăm bật ra theo tiếng chửi rủa, cãi vã”. Mà cũng nhờ có quá trình lượm lặt thế này, về sau khi biên soạn, Inrasara đã làm giàu có hơn văn học dân gian Chăm.

Công của Inrasara thì nhiều, thâu lại gồm mấy điểm sau:

Về ngôn ngữ Chăm, tiếng nói Chăm:

Inrasara sớm có những nhận xét đích đáng về “chuyện chữ”. Anh kể chuyện “chữ hoang” đầy vẻ bí ẩn, và kể huyền thoại về chữ cũng thật hấp dẫn. Những trang viết về “đám tang chữ” của anh vừa lạ vừa sống động. Đọc kĩ Inrasara chúng ta sẽ hiểu rõ hơn về thân phận của chữ Chăm hôm nay. Tôi chợt nghĩ phải hiểu cơn hấp hối của tiếng Chăm đương đại thì mới chia sẻ được với Inrasara về tính cấp thiết của việc cứu sống nó.

Inrasara đã bước đầu chuẩn hoá, thậm chí làm cho ngôn ngữ Chăm phong phú hơn trước rất nhiều. Điều này biểu hiện ở bốn phương diện. Thứ nhất: Inrasara đã cùng với Bùi Khánh Thế, Lương Đức Thắng,… biên soạn bộ Từ điển Chăm - Việt, Từ điển Việt- Chăm. Khi biên soạn họ đã sáng tạo ra một số chữ mới, và bổ sung được khá nhiều từ mới. Thứ hai: Inrasara đã có nhiều sáng tác thơ bằng tiếng Chăm, việc sáng tác này vừa để giữ gìn tiếng nói dân tộc vừa làm cho vốn từ Chăm giàu có hơn. Thứ ba: Inrasara đã từng tổ chức lớp dạy tiếng Chăm để cứu vãn tiếng Chăm khỏi cơn thương khó. Cuối cùng: Inrasara đã cất công sưu tầm, rồi nghiên cứu tỉ mỉ văn học Chăm cổ.

Về văn học Chăm:

 Inrasara có công sưu tầm - nghiên cứu và dịch văn học Chăm. Sara chịu khó đi, chịu khó tìm tòi, sao chép, và hệ thống lại Trường ca, tục ngữ, thành ngữ, câu đố Chăm… Anh nói để có những tư liệu cực kì quí hiếm, để có được nó, anh đã phải đánh đổi cả tuổi thanh xuân của mình. Đối với sử thi, Sara đã vận dụng thao tác so sánh để chỉ ra sự gần gũi cùng điểm khác biệt giữa sử thi Chăm và sử thi các dân tộc thiểu số
khác. Sara rất nghiêm túc khi truy tìm nguồn gốc sử thi, chính anh đã có những lí giải hợp lí về một số thuật ngữ thuộc vùng sử thi này. Đối với truyện cổ, Sara đem lại sự tin cậy về tư liệu cho giới chuyên môn.  Đối với lục bát Chăm, Inrasara đã gợi ra không ít điểm lí thú, mà người đến sau nếu đam mê có thể dựa vào đó để viết những công trình nghiên cứu sâu sắc hơn thế.

Ngoài công việc sưu tầm, nghiên cứu, Inrasara còn tuyên truyền, quảng bá văn học Chăm, văn hoá Chăm trên một diện rộng. Dẫu có công lớn đến vậy, song việc sưu tầm, nghiên cứu… của Inrasara lúc đầu còn nặng quá khứ. Mãi về sau, trong bối cảnh hội nhập, anh mới quan tâm nhiều hơn đến các vấn đề thời sự văn học Chăm. Inrasara đã “gợi mở và gợi hứng sáng tạo” cho các thế hệ Chăm trẻ.

Nếu chúng ta đồng thuận với nhận định: trước Inrasara giới nghiên cứu lẫn độc giả phổ thông chưa hề nhận ra một nền văn học Chăm thì theo tôi nên phân định rõ hơn một chút nữa, rằng: công làm sáng giá văn học Chăm thuộc về chủ thể sáng tạo, còn công làm sáng giá nền văn học ấy, cho đến thời điểm này - cần phải ghi nhận cho Inrasara.

Về văn hoá Chăm:

Inrasara ca ngợi truyền thống hiếu học của dân tộc Chăm. Anh chú ý không chỉ tới kẻ có bằng cấp mà còn cả người không có bằng cấp gì. Đúng ra, anh dành sự quan tâm nhiều hơn đến những con người tự đào tạo. Anh phê phán những kẻ được đào tạo bài bản mà không chịu tìm học thêm,anh rất ghét những kẻ an tâm ăn mòn mớ kiến thức lạc hậu.

Inrasara chỉ ra có hai loại văn hoá: văn hoá sách vở, tức thứ văn hoá tĩnh và văn hoá nhân dân, tức loại văn hoá động. Loại văn hoá thứ nhất dẫu cần thiết, nhưng không sinh hoá, chỉ có loại văn hoá thứ hai mới được sinh thành liên tục trong cộng đồng và cho cộng đồng.

Inrasara nêu bật vấn đề bảo tồn văn hoá dân tộc. Trong nhiều bài viết của mình, anh khẳng định để bảo tồn văn hoá dân tộc “cần có tấm lòng và phương pháp làm việc đúng đắn”. Mặc dù Inrasara không nói rõ ràng, nhưng tôi đọc thấy trong trang viết của anh một quan niệm khá thú vị rằng: muốn bảo tồn văn hoá thành công, mọi dân tộc cần phải có “khả năng tự vệ”. Nếu không có sự tự vệ này, bất kì nền văn hoá nào cũng tất yếu bị suy thoái rồi dần dần bị diệt vong. Ngược lại, nếu có khả năng tự vệ, dân tộc ấy dù có hiện đại hoá để hòa nhập đi nữa cũng sẽ vẫn giữ được bản sắc của dân tộc mình.

Mặc dù Inrasara luôn nói tới “Chăm tính”, song chưa bao giờ anh tự biến mình thành kẻ giữ kho cho cha ông. Tôi thấy, bên cạnh việc bảo tồn, bảo lưu vốn cổ, Inrasara đã thường xuyên nhắc nhở đến công việc tiếp thu, với anh tiếp thu để sáng tạo ra cái mới.

Inrasara bám sát đời sống văn hóa Chăm đương đại. Có thể nói quang phổ kiến văn của anh tương đối rộng. Tôi thấy, anh có thể kể vanh vách những thành tựu về mỹ thuật của Chăm. Lại thấy anh hào hứng nói về hoạt động của ca - múa - nhạc. Khi nói về kiến trúc, anh cũng tỏ ra mình rất thức thời. Bàn về lễ hội dân gian Chăm, hoặc thổ cẩm Chăm, những ý kiến của Inrasara đượm vẻ trẻ trung và hiện đại. Còn nhận định về văn chương Chăm thì khỏi phải nhắc lại.

Tựu trung, Inrasara đã phác dựng được khuôn mặt văn hoá Chăm từ truyền thống đến hiện đại.

Về xã hội Chăm:

Từ việc điểm lại nhiều cuộc thiên di lớn của người Chăm trong lịch sử nước nhà, Inrasara đã dành nhiều trang viết về các thế hệ Chăm Panduranga.

Đọc Inrasara, tôi thấy anh xông xáo bàn về các vùng mờ của xã hội Chăm và văn hóa Chăm cổ. Các trang viết về chế độ mẫu hệ Chăm, hoặc về họ Chăm của anh vừa có ý nghĩa thực tiễn vừa có tính chất lí luận.

 Sara đã trực diện với những vấn đề nóng bỏng của thời cuộc. Chẳng hạn anh thẳng thắn nhìn nhận vấn đề thân phận dân tộc, nghiêm túc nghĩ về thế đứng của con người Chăm hôm nay. Anh thừa nhận: trong xu hướng toàn cầu hoá, khi Việt Nam gia nhập WTO, cơ cấu xã hội nông thôn Chăm bị phá vỡ, đất ruộng ngày càng bị thu hẹp, số hộ không còn đất canh tác tăng theo cấp số nhân,…

Từ thực tế trên, Inrasara nêu lên nhiều vấn đề thiết thực đối với một dân tộc và nói nhiều tới sứ mệnh của trí thức. Với anh, trí thức trước tiên phải biết tỏ thái độ trước thời cuộc, rồi phải thường xuyên tham gia các hoạt động trí tuệ có tính chất cộng đồng; trí thức không chỉ biết tự đặt lên vai mình trách nhiệm xã hội, mà còn nên tự nguyện gánh vác lấy nó suốt đời, thậm chí sẵn sàng sống chết cho nó. Inrasara luôn xét trí thức trong quan hệ với cộng đồng, với dân tộc. Anh bàn sâu tới bản lĩnh trí thức, anh xét tâm thế cùng tri kiến đích thực của trí thức ở từng hoàn cảnh cụ thể. Tôi xem quan điểm vừa nêu của Inrasara rất đúng đắn và đặc biệt cần thiết trong bối cảnh hiện nay.

Inrasara lo cho sinh phận Chăm với một lòng chân thành rất mực. Anh nói về xã hội Chăm, con người Chăm từ một tinh thần mở, một thái độ mở. Anh bảo “chúng ta dù muốn hay không cũng phải lên đường cùng nhân loại”.

Trước Inrasara hiếm có người nào sòng phẳng nói đến cùng các khuyết điểm của mình, lại càng ít người chế ngự được các thói tật của bản thân. Chỉ đến thế hệ Inrasara, mẫu người Inrasara thì sự tự tri mới trở nên có ý nghĩa to lớn đối với chính chủ thể văn hoá Chăm, xã hội Chăm. Tôi khâm phục cái ý chí tự mổ xẻ các khuyết tật Chăm ở anh.

Tôi tin người ta còn nói nhiều đến Inrasara hơn nữa.

T.T.K
(247/09-09)

----------------
(1) Đọc lại Inrasara. Văn hoá - xã hội Chăm, nghiên cứu và đối thoại. Nxb Văn học, 2008





 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
Tin nổi bật
  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học là cuộc sống. Quan niệm như vậy là chẳng cần phải nói gì thêm cho sâu sắc để rồi cứ sống, cứ viết, cứ đọc và xa dần mãi bản thân văn học.

  • LTS: Cuộc tranh luận giữa hai luồng ý kiến về nhân vật lịch sử Nguyễn Hiển Dĩnh, một mệnh quan triều đình Huế có công hay có tội vẫn chưa thuyết phục được nhau.Vấn đề này, Tòa soạn chúng tôi cũng chỉ biết... nhờ ông Khổng Tử "Tri chi vi tri chi, bất tri vi bất tri, thị tri giả" (biết thì nói biết, không biết thì nói không biết, ấy là biết). Vậy nên bài viết sau đây của nhà văn, nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa Nguyễn Đắc Xuân, chúng tôi xin đăng nguyên văn, tác giả phải gánh trọn trách nhiệm về độ chính xác, về tính khoa học của văn bản.Mong các nhà nghiên cứu, cùng bạn đọc quan tâm tham gia trao đổi tiếp.

  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNNăm 1998, Thành phố Đà Nẵng dự định lấy tên nhà soạn tuồng Nguyễn Hiển Dĩnh đặt cho con đường mới song song với đường 2 tháng 9 và đường Núi Thành. Nhưng sau đó qua một số tin bài của tôi đăng trên báo Lao Động nêu lên những điểm chưa rõ ràng trong tiểu sử của ông Nguyễn Hiển Dĩnh, UBND Thành phố Đà Nẵng thấy có một cái gì chưa ổn trong tiểu sử của Nguyễn Hiển Dĩnh nên đã thống nhất rút tên ông ra khỏi danh sách danh nhân dùng để đặt tên đường phố lần ấy. Như thế mọi việc đã tạm ổn.

  • Vừa qua nhà nghiên cứu Nguyễn Đắc Xuân có viết một loạt bài về ông Nguyễn Hiển Dĩnh - một quan lại triều nguyễn, nhà soạn tuồng nổi tiếng Quảng Nam. Qua thư tịch, anh chứng minh Nguyễn Hiển Dĩnh tuy có đóng góp cho nghệ thuật tuồng cổ nhưng những hành vi tiếp tay cho Pháp đàn áp các phong trào yêu nước ở Quảng Nam quá nặng nề nên không thể tôn xưng Nguyễn Hiển Dĩnh là danh nhân văn hoá của việt Nam như Viện Sân khấu và ngành văn hoá ở Quảng Nam Đà Nẵng đã làm. Qua các bài viết của Nguyễn Đắc Xuân có những vấn đề lâu nay ngành văn hoá lịch sử chưa chú ý đến. nhà báo Bùi Ngọc Quỳnh đã có cuộc đối thoại lý thú với anh về những vấn đề nầy.

  • ĐỖ NGỌC YÊNVào những năm 70 của thế kỷ, ở nhiều nước phương Tây tràn ngập không khí của cuộc khủng hoảng gia đình, làm cho nhiều người rất lo ngại. Một số kẻ cực đoan chủ trương xóa bỏ hình mẫu gia đình truyền thống. Nhưng cái khó đối với họ không phải là việc từ bỏ hình mẫu gia đình cũ - mặc dù trên thực tế việc làm đó không phải dễ - mà vấn đề đâu là hình mẫu gia đình mới.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNH             Phóng sự điều tra

  • THỦY THANHLâu nay, "quả lắc" vì sự trong sáng tiếng Việt dường như đã trì vào điểm chết của dây dọi. Những mặc cảm, thành kiến hoặc dị ứng về sự "ga lăng ngôn ngữ" trước áp lực của thời đại tin học cũng chững lại như một thái độ thăm dò. Suy cho cùng thì ngôn ngữ cũng có đời sống riêng và nó bao gồm cả thể vía lẫn thể xác. Nó cũng "hữu sinh tất hữu diệt" trong luật tiến hóa và đào thải như nhiên. Ngôn ngữ nói chung là một phương pháp hệ thống hóa và tích lũy tri thức theo sự diễn tiến về mặt lịch đại và sự tiệm tiến về mặt đồng đại.

  • Các lý thuyết văn học tiếp cận văn chương theo những cách khác nhau và có thể được phân loại theo những tiêu chí khác nhau. Tuy nhiên, có một điểm chung tối quan trọng không thể chối cãi: tác phẩm văn học là một hiện tượng sử dụng ngôn ngữ trong đó không thể thiếu vai trò của tác giả, độc giả cũng như thực tại, cho dù mỗi yếu tố tham gia ở những mức độ khác nhau.

  • Viết là một công việc bất hạnh. Một trong những yếu tố gây khốn khổ cho nhà văn là cốt truyện. Cốt truyện là “ông ngoáo ộp” dọa dẫm người cầm bút và cũng là nguyên nhân chung dẫn đến sự bế tắc của họ trong quá trình triển khai tác phẩm.

  • Trên thế giới, ít có loài hoa nào ra đời sớm, phổ biến với nhiều biểu trưng cao quý như hoa sen. Dáng hình đẹp, màu sắc trang nhã, hương thơm thùy mị, thanh khiết, không nhiễm bẩn... chừng ấy đức tính tốt đẹp đã đưa hoa sen thành biểu trưng cao quý của đạo Phật.

  • TRẦN ĐƯƠNGGoethe (1749-1832) hoạt động trên rất nhiều lĩnh vực và ở lĩnh vực nào ông cũng thâu tóm những tri thức đồ sộ, cũng đạt được những thành tựu xuất sắc. Tên tuổi ông trở thành niềm tự hào của cả dân tộc, được Các Mác gọi là người Đức vĩ đại nhất”.

  • AN CHÍNHCó lẽ Hồng Nguyên là một trong những nhà thơ rất thành công về việc dùng "tiếng địa phương trong thơ của mình.

  • Flier Andrei Jakovlevich(Tiến sĩ triết học, nhà văn hóa học của Nga)

  • HOÀNG NGỌC HIẾN    (Đọc "Văn hóa chính trị - truyền thống và hiện đại" (1) của Nguyễn Hồng Phong)Đây là công trình nghiên cứu tổng kết có tính chất chiến lược Chương trình khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX06 "Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội" do cố giáo sư Nguyễn Hồng Phong làm chủ nhiệm(2). Lịch sử những quá trình hiện đại hóa ở Việt Nam từ cuối t.k.XIX đến nay là một chủ đề quan trọng của công trình.

  • NGUYỄN ĐÌNH CHÍNHThực trạng của phê bình nghệ thuật hiện nay đang là một câu hỏi cần phải được trả lời.

  • THỦY THANHCuộc thi thơ dành cho người tàn tật ở Thừa Thiên Huế mặc dù "thời gian ứng thí" chưa đầy 2 tháng nhưng đã thu được kết quả đáng khích lệ. Với 33 tác phẩm của 7 tác giả nghiệp dư mang khuyết tật trên mình nhưng mỗi con người trong họ vẫn là "một thế giới một tâm hồn" lành lặn.

  • HOÀNG TẤT THẮNGMột trong những đặc điểm đặc thù của tiếng Việt là: các danh từ chỉ sự vật, hiện tượng, trạng thái, tính chất... không phải luôn chỉ đứng một mình mà thường kết hợp với một từ đứng trước với chức năng phân loại, chỉ đơn vị, biểu thái... trong lời nói. Chẳng hạn, sự vật thuyền trong tiếng Việt không phải chỉ có từ "thuyền" mà còn có "cái thuyền", "chiếc thuyền", "con thuyền", "lá thuyền", "mảnh thuyền"... các từ "cái - chiếc - con - lá - mảnh..." thường gọi là từ chỉ loại (hay là loại từ).

  • NGUYỄN THANH HÙNGVăn học thời đại nào cũng là sự du di cái nhìn thấm sâu vào đời sống. Thơ văn nói tới cái thật xa, rồi lại trở về với cái thật gần. Muốn đi xa, hành trang thơ phải gọn nhẹ, nhẹ chữ nhưng nặng lòng. Thơ Thiền là vậy. Mỗi câu thơ như một mũi tên bay vào tưởng tượng. Giữa những dòng thơ Thiền là một cõi chân như, vượt ra ngoài định giới môi trường xã hội quen thuộc, vì thế thơ Thiền thênh thang hướng đạo nhằm mục đích cứu sinh, đưa con người trở về với chính nó.

  • LÊ ĐẠT                Đường bụi trang lịch cũ                 ếp ếp đàn thời gian                                           L.Đ

  • HOÀNG NGỌC HIẾN             (góp phần định nghĩa minh triết)Tôi bắt đầu tiểu luận này bằng những suy nghĩ có liên quan đến chủ đề minh triết của hai học giả Việt Nam: Ngô Thời Sĩ (1740-1786) và Kim Định (1914- 1997).