NGỌC BÍCH
(Đọc "Thơ Ngô Kha"*)
Bây giờ là năm 1992. Anh hy sinh đã gần 20 năm. Tập thơ của anh đã xuất bản được một năm nhờ những bạn bè thân quen và những người yêu mến thơ anh. Tôi là người đến muộn. Nhưng như người ta vẫn nói "dẫu muộn còn hơn không". Nhất là ở đây lại đến với MỘT CON NGƯỜI.
Tôi nhận ra anh, chàng trai 30 tuổi, thanh cao, nghiêm nghị, ít nói nhưng trong lòng chất chứa bão giông. Con người ấy, vào một đêm ba mươi giã từ tháng chạp, trong mưa ngâu rơi rơi, trong đêm đen, đen bằng chất đêm, bằng ám ảnh của ngày tận thế đã nhận ra nỗi cô đơn của mình trong cuộc đời, trong vũ trụ, trong thời gian.
Anh hình dung một trận mưa bất tận làm nước dâng lên cửa sổ, ngập đường phố. Và anh, đôi tay bơ vơ cố níu vào quả địa cầu. Đó là vào những năm 60. Ở miền Nam, Ngô Đình Diệm kéo lê máy chém, diệt trừ những người kháng chiến cũ. Cái cô đơn của Ngô Kha lúc này là lúc cô đơn của một con người bé nhỏ trước vũ trụ, một mình chống lại cơn mưa, đêm đen. Tràn ngập trong anh, đêm ấy, hình ảnh người con gái tinh khiết, yêu thương. Đó chính là thứ ánh sáng, lấp lánh, thứ hương thơm phảng phất quyến rũ anh trở về cuộc đời từ lối thoát vũ trụ. Và anh lại là mình, thao thức về cuộc đời "Ở trong và ngoài cửa sổ”.
THAO THỨC, trăn trở trước cuộc đời có lẽ là bản tính của anh. Ở tập thơ đầu anh viết những vần thơ hơi lạ. Nhiều than khóc, nhiều màu đen. Mưa khóc, mặt trời cũng vật mình than khóc. Khói vương những hình đốm đen, đêm đen, đại lộ đen. Giữa những màu đen ấy tôi chợt hiểu tại sao cơn mưa ngập tràn đường phố của anh lại có màu nâu.
HY VỌNG cũng là bản tính của anh. Con người ấy không bằng lòng với mình, luôn khao khát lên cao:
Xe lên triền núi mỏi mòn
Qua truông bạc tóc hãy còn bơ vơ
Lên cao gió lộng nào ngờ
Càng xe đổ chợt, tình cờ cô đơn.
Cô đơn, theo anh, không phải là lẻ loi. Cô đơn là phút tâm hồn vụt sáng, ở đó nhà thơ chợt nhận ra mình. Đạt đến "cô đơn", theo nghĩa đó, là một cuộc kiếm tìm. Con người có thể gặp "cô đơn" cả trong nỗi đau khôn cùng và cả trong vinh quang tột đỉnh. Phải chăng Ngô Kha đã có những phút giây gặp được chính mình.
Từ tập thơ đầu "Hoa cô độc" (1961) anh mang theo THAO THỨC và HY VỌNG đến những bản trường ca của đời mình: Sáng tác và hoạt động cách mạng trong phong trào học sinh sinh viên. Trong sáng tác của anh tôi chú ý đến hai bản trường ca đều được viết vào năm 1968. NGỤ NGÔN CỦA NGƯỜI ĐÃNG TRÍ xuất hiện sớm hơn. Còn sau đó là TRƯỜNG CA HÒA BÌNH. Hai bản trường ca xuất hiện trong một năm. Không là người THAO THỨC trước dân tộc không thể viết những vần thơ rút kiệt tâm lực như thế. "NGỤ NGÔN CỦA NGƯỜI ĐÃNG TRÍ" hơi khó đọc. Tên của trường ca đã nói trước điều đó. Ngụ ngôn là ám chỉ, là ẩn dụ. Ngụ ngôn của anh là những ẩn dụ vừa bí ẩn, vừa ghê rợn được hình thành trong tưởng tượng của người đãng trí, giữa cơn say rượu và những đêm dài mộng du. Người đãng trí thì có nhớ, có quên. Cho nên thực và hư lẫn lộn. Nhưng có một điều mà người đọc nhận ra trong câu chuyện ngụ ngôn của người đãng trí là hình ảnh một nhà thơ hoàn toàn tỉnh táo, đang đau đớn quằn quại trước những gì mắt thấy, tai nghe. Hỏa mù, trái sáng, cơn mưa hồng trên da thịt người, vành khăn tang, lời cầu nguyện, những vết thương chiến tranh trên mặt đất, trong buổi hoàng hôn, trên cỏ non và cả trong trái tim người... Con người có hai giác quan để làm người là thị giác và thính giác. Trong bản trường ca không phải một lần nhà thơ nói đến "cái mùi". Người con gái mang hình ma quỷ đêm nào dẫn người đãng trí đi trong cuộc mộng du đã đâm mù mắt anh ta bằng hai quả trứng vàng mộng mị. Năm người mù ngồi dựa góc cây nhận ân sủng của thần linh là ổ mì và nắm xôi trên vùng quê chiến tranh; hỏa châu đâm mù mắt nhà thơ... Và sau khi đã thấy những đẹp đẽ đến thiên thần của thiên nhiên và cuộc sống, đã chứng kiến những hủy diệt tận cùng chúng bởi chiến tranh, đã nghe những âm thanh thiêng liêng của cuộc đời những âm thanh rùng rợn từ loài ma quỷ, nhà thơ đề nghị :
Thôi
Em hãy châm lửa đâm mù mắt tôi
Em đừng căng dây đàn trái đất
Tôi vẫn là người chỉ còn một giác quan đơn độc
để nghe dây đàn chùng
cũng như em
chỉ còn một nụ cười
để xua đuổi già nua.
Không muốn nhìn, không muốn nghe, đó cũng là một lời từ chối.
Từ chối chiến tranh nhưng không từ chối cuộc đời. Anh giả làm người đãng trí viết chuyện ngụ ngôn, nhưng trái tim anh lại rung lên không ngừng trước những âm thanh sự sống. Chẳng thể nào khác được, anh phải là anh :
Tôi vốn mang trong người muôn quả tim
Như cây trên rừng nhiều lá
Sự sống từng giờ lay động bằng tiếng khóc trẻ thơ
Ôi thế trần...
Trong ngụ ngôn của anh ta nghe thấy bao lần những từ luyến tiếc, xót xa : "Thôi còn gì", "thôi chẳng còn gì", "còn gì, còn gì"...
- Thôi còn gì những buổi trời mưa cây lá xanh
Đứa con trai khoác áo chim hồng bay qua đỉnh núi
- Cỏ úa khô và rừng cũng chiều
Với một loài xanh xao
Ta đốt cháy bầu trời để chun ra ngoài thành phố
Thôi chẳng còn gì
biển trôi đi trong ánh mắt hoe của người hoa tiêu
với loài tảo biển.
Hoàng Phủ Ngọc Tường nói anh là người thơ siêu thực. Vâng, anh siêu thực trong bút pháp, còn hiện thực trong cảm xúc. Anh có dùng hình thức người đãng trí, người say, giấc mơ, cơn mộng du... siêu thực để diễn tả tư tưởng cảm xúc của mình. Nhưng cảm xúc của anh, nỗi đau vò xé trái tim anh trước những cái đẹp của cuộc sống bình yên bị phá hủy một cách tàn bạo thuộc về đạo lý nhân bản, nhân dân, dân tộc. Siêu thực trong anh là đau thương chiến tranh trên thân phận con người đã đem vào máu thịt, thành nỗi xót xa, thương cảm, thành khát vọng hòa bình.
Trong quan niệm ấy, việc anh viết bản trường ca thứ hai, trong cùng một năm: TRƯỜNG CA HÒA BÌNH là tất yếu.
Trường ca hòa bình là một trăn trở mới. Mặc dù dùng cảm xúc trong trường ca chảy liền mạch, tuôn trào, trước gọi sau cho đến tận câu cuối. Khung cảnh cuộc sống hòa bình của đất nước ta sau chiến tranh được anh tưởng tượng trong một niềm tin yêu, hy vọng. Trái tim anh đã một lần tan nát bởi chiến tranh nay hồi sinh, trỗi dậy với sức sống mãnh liệt nhất nhờ có hòa bình :
Hòa bình về trong trái tim người
Như sự sống một lần trở lại
Hòa bình khởi công
Hòa bình vùng dậy
Hòa bình ấm no độc lập
Hòa bình thống nhất muôn nơi
Ta bỗng nghe xao xuyến trên thân người
Muôn vó ngựa dập dồn trong thớ thịt
Nghe máu dựng ngọn cờ hy vọng
Như mặt trời chói rạng giữa mùa đông
Hòa bình về đây huyền diệu vô cùng
Như mẹ hóa thân vì lời con khấn nguyện
Cây nở trái trong vườn chim thường đến
...
Hòa bình về đây
Như sóng dâng cờ
Nghe lụa mát trong hồn khi chiến tranh vừa tẩm liệm..
"Trường ca hòa bình” mang không khí của một anh hùng ca, mà chiến công được ca ngợi là công cuộc xây dựng hòa bình sau chiến tranh, Ngô Kha vẽ nên một bức tranh xây dựng đất nước hoành tráng, ở đó mọi sức lực của dân tộc được huy động. Ba mươi triệu đồng bào (lúc đó, dân số của Việt Nam là 30 triệu người) kết liền một khối, đồng hành tiến bước, từ Bắc chí Nam, từ miền xuôi miền ngược, mọi tài nguyên, mọi tiềm năng tinh thần từng được kết tinh trong lịch sử... đều tham gia vào công cuộc xây dựng vĩ đại này. Con người Việt Nam bây giờ tràn đầy sinh lực "chướng ngại nào cũng vượt như tên", còn thành quả đạt được thì vô cùng to lớn:
Khắp mọi nhà lúa trổ đầy sân
Thôn quê cơ giới
Ngũ cốc đầy miền
Đây phố cũ
Đêm ta nằm mộng
Nhà máy cao ngất ngưỡng trời xanh...
Anh dùng nhiều hình ảnh có tính khoa trương. Phảng phất âm hưởng của trường ca Đam San với những của cải vô tận của người tù trưởng giàu mạnh. Cả dân tộc rùng rùng tiến bước đến hạnh phúc:
Ta nghe dậy trong lòng đất mới
Tình đồng hương xây lại xóm làng
Từ ngọn đồi tuổi trẻ cao nguyên
Ta mơ thấy Trường Sơn văn hóa Việt
Đây con đường ngoại ô ngọc bích
Hàng cau tươi ngỏ ý hôn nhân
Nắng hanh vàng sửa soạn đến mùa cam
Em cũng lớn lên vừa trang sử đẹp
Đây đường thôn ta
dân rộn ràng như thóc
Những hạt giống mơ màng nói chuyện mùa sau...
Đó là nhờ chiến tranh đã chấm dứt, là nhờ tình yêu lớn lao đối với con người :
Chiến tranh phi nhân một ngày kiệt sức
Hạnh phúc một ngày tiến tới muôn nơi
Hội trường cất cao trưng bày nghệ thuật
Nhà tù khép kín thành bãi rêu hoang
là nhờ biết tìm trong đau thương những gì cần thiết cho sự sống :
Từ em đường cửa ngõ chiến tranh
Ta mở cổng cho ngựa thồ qua biên giới
Anh hùng ca thường viết về những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử một dân tộc. Bản trường ca này viết về điều sẽ đến. Nó là anh hùng ca của khát vọng hòa bình, của niềm tin vào nhân dân, dân tộc được đốt sáng từ nỗi đau chiến tranh đang từng ngày rình rập người dân vô tội.
Hai bản trường ca được viết bởi hai bút pháp khác nhau nhưng đều xuất phát từ cùng một khát vọng: HÒA BÌNH, HẠNH PHÚC. Lặp lại trong trường ca của anh, trong thơ anh, hình ảnh những người dân Việt Nam tự do, ấm no đang lao động hết mình vì phồn vinh của đất nước sau chiến tranh.
Khi hy sinh, Ngô Kha đã gần bốn mươi tuổi. Và cho đến hôm nay tính theo năm tháng, anh đã gần tuổi sáu mươi. Nhưng đọc thơ anh tôi luôn hình dung anh là chàng trai ba mươi tuổi, mạnh mẽ trong ưu tư, chưa một phút giây ngừng băn khoăn tự hỏi về số phận những người dân bình thường trong chiến tranh, và hy vọng MAI CÓ HÒA BÌNH:
Nguyện làm loài chim mang quá khứ đau thương
trở về tấu khúc hòa bình lên hoa đồng thảo
Ở đó
Việt Nam vĩnh cửu
Việt Nam không còn chiến tranh.
Anh đã viết bài thơ CHO NHỮNG NGƯỜI NẰM XUỐNG với những câu kết như vậy. Tôi nghĩ anh đã thực hiện được ý nguyện của mình.
Huế tháng giêng 1992
N.B
(TCSH48/03&4-1992)
---------------
(*) Thơ Ngô Kha. Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên-Huế-1991.
LÊ HUỆCuộc thi Truyện ngắn cho sinh viên Huế do tạp chí Sông Hương tổ chức đã thu hút được sự tham gia của rất nhiều các bạn trẻ mang trong mình khát vọng văn chương. Những truyện ngắn dự thi đã cho ta thấy được một vóc dáng mới của các cây bút trẻ Huế hiện nay: phản ánh cuộc sống đương đại từ nhiều góc cạnh bằng bút pháp tinh tế, mới mẻ, giàu trí tuệ và đầy chất thơ. Mười lăm truyện ngắn xuất sắc lọt vào chung khảo đã được tập hợp lại thành ấn phẩm mang tên “Yêu xa xa một phút”.
PHAN MINH NGỌC“Bài thơ về biển khơi” (*) là tập sáng tác đầu tay của cây bút nữ Trần Thùy Mai.
NGÔ HƯƠNG GIANGLàm thế nào để diễn giải hợp lý về Tường Thành?
KHẢI PHONGTôi đã có dịp gặp những trang thơ chân chất của Nguyễn Quang Hà trong “Tiếng gà trên đỉnh chốt”(1). Lần này gặp văn Nguyễn Quang Hà trong “Mùa xương rồng nở hoa” (2), cảm tưởng lưu lại trong tôi là văn anh gây được ấn tượng mạnh hơn thơ.
NGUYỄN ĐÔNG NHẬT19 lời chứng của những ONS(1) cuối cùng, lần đầu tiên được lên tiếng qua công trình nghiên cứu hoàn hảo của bà Liêm Khê LUGUERN(2) là những nhân chứng cuối cùng trong số khoảng 27.000 người từ Đông Dương bị lùa đến nước Pháp từ tháng 10/1939 đến tháng 6/1940 để phục vụ cho guồng máy chiến tranh của thực dân Pháp trong Thế chiến thứ II.
LÝ HẠNHAi trong đời chẳng đã một lần làm thơ. Dù làm thơ để giải trí hay sẻ chia thì những trang thơ ấy cũng là tiếng hát của trái tim, là nơi dừng chân của tâm hồn.
LTS: Có một chuyện ít người biết là các nhà văn Tô Hoài, Xuân Diệu, Huy Cận không nhớ ngày sinh của mình. Xuân Diệu, con nhà Nho, thì biết mình sinh giờ Thìn, ngày Thìn, tháng Thìn, năm Thìn, nhưng không biết dương lịch ngày nào. Nhà văn Tô Hoài cũng vậy, nhưng nhớ Bà Cụ cho biết sinh ông đêm rằm Trung Thu. Sau này, sang Nga, bạn người Nga hỏi, mới tra ra ngày Tây là 27-9-1920. Do đó trên các tư liệu, thường thấy ghi ngày sinh: 07-9-1920, và nhà văn cũng không buồn đính chính. Nhân kỷ niệm 90 năm ngày sinh nhà văn Tô Hoài, Sông Hương nhận được bài viết của nhà văn Đặng Tiến cùng thông tin về ngày sinh Tô Hoài nói trên. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.
HOÀNG DŨNGKhông phải ngẫu nhiên khi ta nói vũ trụ, thế giới thì vũ, giới là không gian, mà trụ, thế là thời gian. Ngay trong những khái niệm tưởng chỉ là không gian, cũng đã có thời gian quấn quýt ở đấy.
LTS: Trong các ngày 7-9/9/2010 sắp đến, Ủy ban Văn hóa Hội đồng Giám mục Việt Nam và Tòa Tổng Giám mục Giáo phận Huế sẽ tổ chức Hội thảo về thân thế và sự nghiệp của Léopold Cadière (1869-1955), Nhà nghiên cứu về Huế và Việt Nam học, chủ bút của tập san Bulletin des Amis du Vieux Hué (B.A.V.H), một trong số các tờ báo hay nhất ở Đông Dương thuở trước. Hội thảo sẽ có một số nội dung liên quan đến văn hóa Huế như Văn hóa Huế, Mỹ thuật Huế, Cổ vật Huế dưới con mắt của L. Cadière... Nhân dịp này, Tạp chí Sông Hương đăng bài viết của nhà nghiên cứu Hồ Vĩnh, chuyển tải vài nét về hoạt động văn hóa của Léopold Cadière. Xin giới thiệu cùng bạn đọc.S.H
NGUYỄN THỊ HÒA Không cần phải bàn cãi, Từ điển tiếng Huế của Tiến sĩ, Bác sĩ Bùi Minh Đức là một tác phẩm Từ điển. Một quyển từ điển về phương ngữ địa phương Huế mà dày dặn, công phu, với 2050 trang, thể hiện công sức nghiên cứu miệt mài của một vị bác sĩ - nghiệp dư với nghề ngôn ngữ, nhưng đầy nhiệt tình và khá chuyên nghiệp trong nghiên cứu.
Sinh ngày 6-2-41 tại Huế. Hy sinh ngày 11-10-68 tại vùng biên giới tỉnh Tây Ninh, nguyên quán làng Bát Tràng tỉnh Bắc Ninh. Học sinh cũ Trường Quốc Học, tốt nghiệp Đại học Sư phạm Ban Việt văn. Tên thật và bút hiệu công khai, chính thức: Trần Quang Long. Các bút hiệu khác: Thảo Nguyên, Chánh Sử, Trần Hoàng Phong.
TRẦN HỮU LỤCỞ tuổi 20, hành trình sáng tác của Nhóm Việt gắn liền với những biến cố lịch sử ở miền Nam (1965-1975). Những cây bút trẻ của Nhóm Việt đã bày tỏ một thái độ dấn thân ngày càng sâu sắc, vừa trên bình diện ý thức công dân, vừa trên bình diện ý thức nghệ sĩ.
PHONG LÊ(Kỷ niệm 100 năm ngày sinh Nguyễn Tuân 10-7-1910 – 28-7-1987)
NGUYÊN QUÂN Phía đằng sau những con chữ bình dị như một chốn quê nhà chưa bị ô nhiễm cơn đau phố bụi, một ngôi làng yên bình vẫn luôn hằng hiện trong mỗi hơi thở, mỗi bước gian truân của tác giả là sự chân thật đến nao lòng.
LÝ HOÀI THU Những câu thơ đầu tay của Hữu Thỉnh cất lên từ những cánh rừng Trường Sơn được anh gọi là “Tiếng hát trong rừng”. Anh viết về đồng đội, về cơn sốt rét rừng, về những trận bom và vết hằn xe xích, về mây, suối, dốc, thác Trường Sơn.
THÁI DOÃN HIỂU…Khi sự vong ân bội nghĩa của người đời đang diễn ra ở khắp đó đây thì Hoàng Trần Cương là người sống bằng ân sâu nghĩa cả. Với anh, ân nghĩa là một gánh nặng phải gánh. Anh nói về ân nghĩa như là một thứ trí nhớ của lương tri, một món nợ không bao giờ trả xong…
VŨ DUY THÔNG (Thơ - Nghiêm Huyền Vũ, Nxb Trẻ 2000)Khác với bên ngoài, Nghiêm Huyền Vũ trong thơ là người trầm tư, cái trầm tư nhuốm vị triết học.Vây bọc quanh anh là không gian, thứ không gian cô liêu.
TRẦN QUỐC THỰCÍt người chịu đi tìm tiếng nói riêng khi đọc một tập thơ, một chặng thơ của một người. Qua từng chặng thơ, tiếng nói riêng ấy sẽ trở thành một cách thơ riêng biệt. Và đó là điều đáng mừng cho đội ngũ sáng tác.
NGUYỄN THANH TÚ (Phác thảo chân dung nhà văn Nguyễn Bảo)
LGT: Cuốn tiển thuyết “Biết đâu địa ngục thiên đường” của nhà văn Nguyễn Khắc Phê vừa xuất bản được xem là tác phẩm thành công nhất của ông, cũng là cuốn tiểu thuyết viết kỹ lưỡng nhất, lâu nhất. Cuốn tiểu thuyết này hiện nay nằm trong danh sách những cuốn vào chung khảo cuộc thi tiểu thuyết của Hội Nhà văn Việt Nam. Sông Hương xin giới thiệu những ý kiến nhận định rất chân thành của Giáo sư Trần Đình Sử, nhà văn Ma Văn Kháng và nhà nghiên cứu phê bình Từ Sơn.