Hương Giang quốc gia chi bảo...

17:23 05/02/2009
NGUYỄN XUÂN HOÀNGNhân một lần ghé ngang Paris , võ sư người Huế Nguyễn Văn Dũng đã đi thăm sông Seine. Đứng lặng lẽ bên dòng sông thơ mộng bậc nhất nước Pháp, bỗng lòng ông nhớ sông Hương quá trời. Về lại Việt , ngồi bên bờ sông Hương, ông vẫn hãy còn thấy nhớ cồn cào cái dòng chảy thầm thì trong sương mù như một nhát cắt ngọt ngào giữa trái tim đa cảm.

Tôi đã hỏi hàng trăm người Huế và những người yêu Huế về sông Hương rằng cảm giác của họ thế nào khi sống xa dòng sông đã từng gắn bó với họ suốt cả một thời trai trẻ. Câu trả lời mà tôi nhận được là mong ngày trở về Huế được ngồi suốt ngày bên sông Hương, được tắm lội ngược dòng Hương để tìm lại chút kỷ niệm của ngày xưa.

Quả là sông Hương đã chở trên mình nó hình hài và phong vận của cả một vùng đất. Như đôi vòng tay mẹ, dòng sông đã cưu mang những thành quách, đền đài, lăng tẩm và cả những riêng tư nhỏ nhất của từng ấy cư dân... Bà - Mẹ - Lớn tần tảo ấy đã chắt chiu từng hạt phù sa đỏ bậm tận Đại Trường Sơn, gánh trên vai qua bao ghềnh thác, mang lại sức sống trường tồn cho cả một vùng hạ lưu trù phú. Ngần ấy trăm năm, ngần ấy nghìn năm, ngần ấy vạn năm sinh thành, sông Hương từ thuở có tên là Tiêu Kim Thủy, Kim Trà... đã cặm cụi bồi đắp để cho Huế một dãy đồng bằng với những sản vật phong phú: cây thanh trà Nguyệt Biều, con cá ong, cá dìa đầm phá và cả hương vị đắng bùi của loài nấm tràm mỗi năm vài lần có mặt trong những bát canh rau tập tàng... Trong trái măng cụt mà người Huế gọi là giáng châu ở miệt vườn Kim Long, vẫn còn lưu lại hương thơm và vị ngọt của dòng nước Hương Giang. Và trong quả mít nài xù xì lớp vỏ thô dị tận Ngã Ba Sình, vẫn lưu hoài vị đạm thanh của dòng nước thơm đầy hương thạch xương bồ... Tóc con gái Huế dài đen mịn như nhung, dáng con gái Huế thanh như trúc Vỹ Dạ, giọng nói ngọt như đường phèn tháng bảy... khiến bao chàng trai phong tình xứ Quảng phải đổ quán xiêu đình, là có nguyên cớ của nó. Nguyên cớ ấy là dòng Hương Giang đệ nhất phong thủy kia đã làm nên phong vận của vùng đất kinh kỳ...

Có lẽ không cần phải đề cập đến lợi ích kinh tế cụ thể của sông Hương, vì đó là một điều mặc nhiên, mà hãy nhìn sông Hương trước hết là từ lợi ích văn hóa, là những gì còn lại vĩnh cửu sau khi đã mất đi. Nhiều người yêu Huế vẫn nhớ hoài cách đặt vấn đề rất “đau tim” của nhà văn Hoàng Phủ Ngọc Tường rằng: nếu một buổi sáng thức dậy không còn thấy sông Hương nữa thì thành phố Huế sẽ thế nào? Không còn là hoảng hốt nữa mà thực sự bàng hoàng... như là thành phố Huế đã biến mất một cách bí ẩn và không còn nữa trên trái đất này. Giả định như vậy để thấy sông Hương máu thịt thiết thân đến ngần nào đối với những người Huế và những người yêu Huế. Tiếp cận sông Hương ở bất kỳ góc độ nào, khoảng thời gian nào trong ngày đêm, cũng nhận thấy vẻ đẹp vô cùng đa dạng của nó. Bạn có thể ngắm buổi chiều tà từ một chỗ ngồi trên cỏ ở Bến Me, màu hoàng hôn loang dần và tím ngắt vỉa hè. Ngắm buổi sáng ban mai từ chiếc ghế đá trước trường Quốc Học, nhìn xuôi về Ngã Ba Sình để đợi ánh ngày lên. Những ngày Huế mưa lớn, có thể lên đồi Vọng Cảnh, ngồi bó gối nghe mưa rơi âm vang trên mặt sông rộng mờ sương nghi ngút đến tận thượng nguồn. Ở đây dòng sông sáng như một vết kiếm dài. Có phải là Cao Bá Quát sau những ngày lần đận lao lý, qua dòng Hương buổi ban mai, tức cảnh ông đã viết:
Vạn chướng như bôn nhiễu lục điền
Trường Giang như kiếm lập thanh thiên.
Tạm dịch:
Muôn dãy núi như chạy vòng quanh khu ruộng xanh mướt
Ngọn sông dài như lưỡi gươm dựng giữa trời xanh.

Cách nhìn lạ hóa của Cao Bá Quát đã cho sông Hương hay là cho chính ông một phẩm chất mới can trường: dòng sông thơ mộng có vóc dáng kiêu dũng của một thanh kiếm dựng đứng giữa trời xanh. Nhưng riêng mình, tôi lại nghĩ đó là phẩm chất tiềm ẩn của một vùng đất giàu văn hóa mà Cao Bá Quát đã nhận thấy. Chẳng phải vậy mà Huế có rất nhiều người đi làm cách mạng. Và những ngày tháng ở Huế đã cho Cao Bá Quát một sự lựa chọn trong cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương bi tráng sau này.
Tôi vẫn thường thích ngắm sông Hương những lúc đêm về. Mặt sông lúc này thật lặng lẽ, con nước chảy trễ nải và vô tư như không hề vướng bận bất cứ một điều gì. Bóng tối từ những bờ cây và đám cỏ dại loang dần ra giữa mặt sông. Đêm tối nhung mịn như một tấm khăn choàng lớn phủ lên dòng sông mờ phai nét bí ẩn của bóng đêm. Sắc tím từ ánh đèn bên vài cầu Trường Tiền hắt xuống dòng sông một vùng ánh sáng diễm ảo. Lúc này, lác đác trên gương mặt sông Hương, bóng vài con đò nhỏ trôi trong đêm. Tiếng mạn đò trườn lên mặt nước như một hơi thở dài của ai đó cố nén lại trong lồng ngực.

Nhớ một đêm nào Huế đầy mưa gió, tôi đi qua cầu Trường Tiền và chợt thấy những đám mưa hồng. Ngày Trịnh Công Sơn viết ca khúc “Mưa hồng”, cầu Trường Tiền chưa làm mới, bị gãy một nhịp và cũng chưa có ánh đèn màu. Những ngày ấy ven sông Hương có rất nhiều hoa ti gôn, mà bây giờ ở đường Nguyễn Đình Chiểu người ta vẫn thấy còn sót lại lơ thơ một chút sắc hồng. Có phải là Trịnh Công Sơn đã thấy những đám mưa hồng từ đây, để mấy mươi năm sau tôi một mình qua cầu ướt áo nhớ những cơn mưa hồng tiễn em vào Thành Nội, đường phượng bay rơi đầy một sắc hoa đỏ tương tư.

Có một dạo nước sông Hương trở đục. Báo chí lên tiếng. Hoàng Phủ Ngọc Tường nằm một chỗ xem ti vi rồi buồn suốt mấy ngày trời. Ông bảo tôi giọng đã tròn tiếng là phải làm răng. Tôi cười, nói: “Hết đục thì nó trong, chứ làm răng bây chừ”. Quả thật sông Hương khi đục rất khó chịu. Đi ngang qua cầu Trường Tiền cứ thấy tưng tức trong lồng ngực như một nỗi uất ức không giải tỏa được. Nhìn dòng sông xanh quen mắt rồi nên khi đục thì đâu còn là sông Hương nữa, chỉ là sông Tiền, sông Hậu đó thôi. Rồi có dạo sông Hương đầy lục bình. Cái “vấn nạn” lục bình cùng với nước đục làm dòng sông khổ ải. Không phải là lục bình không đẹp mà là sông Hương tự xưa nay không hề có lục bình. Tìm nguyên nhân thì ra từ lâu, sông Bạch Yến - một chi lưu của sông Hương đầy kín hoa lục bình. Để làm kè Xước Dũ, người ta đã tháo nước từ sông Bạch Yến đổ ra sông Hương và thế là lục bình theo con nước tràn kín sông Hương. Trận lũ cuối năm 2004 đã cuốn đi phần lớn lục bình ra biển, sông Hương trở lại gần như nguyên trạng của gương mặt xưa.

Sông Hương là Bà - Mẹ - Lớn của Huế. Bà mẹ ấy đã cho xứ Huế dòng sữa ngọt ngào nuôi nấng hình hài Huế, cho xứ Huế nét văn hóa căn bản đằm thắm, suy tư và đôn hậu. Nhưng chưa hết, Bà mẹ ấy còn là đời sống tâm linh yên ủy và mang lại sự bằng an cho cư dân Huế giữa thời hiện đại xô bồ. Khó có thể hình dung diện mạo cụ thể của đời sống tâm linh mà người Huế đã nhận được từ sông Mẹ. Giọng nói ấy, tính cách ấy, tâm hồn ấy, nết ăn nết ở ấy, tấm lòng yêu thiên nhiên, biết trân trọng vạn vật và nhìn thấy ở vạn vật một đời sống tâm hồn... tất cả đều có nguồn cội từ cái vết đứt gãy trong quá trình tạo núi ở một kỷ nào đó cách đây hàng triệu triệu năm. Vết đứt gãy ấy có tên gọi là Hương Giang. Người Huế lòng vui hay buồn cũng thường tìm về sông Hương, ngồi bên dòng sông lặng lẽ từ giờ này qua giờ khác, ngắm con nước chảy âm thầm về cuối trời xa. Ở đó, những vết thương lòng sẽ lành, sẽ lên lớp da non êm dịu. Ở đó, những bụi trần được tẩy rửa, không còn nữa những buồn vui hội ngộ, lòng thảnh thơi như vừa đi qua những cay nghiệt của cuộc đời...

Một ngày cuối thu, tôi đọc bức thư của ngài Francesco Bandarin - Giám đốc Trung tâm Di sản Thế giới UNESCO kính gửi Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế, thông qua ông Võ Đức Tâm - Đại sứ Việt bên cạnh UNESCO. Lá thư ngắn đề cập đến vấn đề lập hồ sơ đề nghị UNESCO xét công nhận lần hai “Di sản văn hóa Huế với cảnh quan môi trường dọc hai bờ sông Hương”. Bức thư yêu cầu Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế lập hồ sơ, gửi báo cáo cập nhật tiến trình thực hiện những kiến nghị mà chuyên gia UNESCO đã đưa ra trong chuyến công tác tháng 11/2003 đến Ủy ban Di sản Thế giới trước ngày 01/02/2005, để Ủy ban xem xét trong kỳ họp thứ 29 được tổ chức vào năm 2005. Như vậy, bức thư của ngài Francesco Bandarin cho thấy sự nhìn nhận xác đáng giá trị đích thực của cảnh quan hai bờ và sông Hương trong danh mục quần thể di tích cố đô Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa nhân loại. Rằng sông Hương chính là chiếc trục chính chở trên mình nó một quần thể di tích nổi tiếng của nhân loại. Rồi sông Hương sẽ là di sản văn hóa nhân loại. Ôi! Điều ấy mang lại vinh dự biết bao nhiêu cho vùng đất này. Người Huế đã có thể tính chuyện vuông tròn lâu dài với sông Hương, những phương án cụ thể để bảo tồn, gìn giữ và phát huy những giá trị văn hóa - tâm linh vốn quý báu và trường cửu với thời gian.

Tôi vẫn thường hình dung sông Hương là một nàng tiên nữ đài các. Số phận đã an bài cho nàng một sự truân chuyên. Nhưng mặc cho mưa gió dập vùi, qua bao bể dâu nàng vẫn giữ gìn được vẻ đẹp kiều diễm, những truân chuyên chỉ là tô thắm thêm vẻ mặn mà, nét phong vận hồn nhiên. Tôi tin rồi một ngày nào đó, bên dòng sông Hương di sản văn hóa nhân loại sẽ mọc lên Tượng - Đài - Nữ - Thần - Sông Hương. Nàng mang gương mặt dịu dàng của Huyền Trân Công Chúa và sắc tư dung của Ngọc Hân. Bức tượng ở đó mờ ảo trong sương mù dòng Hương, đẹp rực rỡ vào mỗi buổi ban mai và bí ẩn lúc chiều xuống. Nét u hoài xa khuất như thể những gót chân sen vẫn còn lưu dấu bên thềm cỏ dại tơi bời...
    Huế, ngày 09 tháng 12 năm 2004
N.X.H

(nguồn: TCSH số 191 - 01 - 2005)

 

Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • NGUYỄN ĐẮC XUÂNAnh em Nguyễn Sinh Khiêm - Nguyễn Sinh Cung sống với gia đình trong ngôi nhà nhỏ trên đường Đông Ba. Ngôi nhà giản dị khiêm tốn nằm lui sau cái ngõ thông với vườn nhà Thượng thư bộ Lễ Lê Trinh. Nhưng chỉ cần đi một đoạn ngang qua nhà ông Tiền Bá là đến ngã tư Anh Danh, người ta có thể gặp được các vị quan to của Triều đình.

  • BẮC ĐẢOBắc Đảo sinh 1949, nhà văn Mỹ gốc Trung Quốc. Ông đã đi du lịch và giảng dạy khắp thế giới. Ông đã được nhận nhiều giải thưởng văn học và là Viện sĩ danh dự của Viện Hàn lâm Nghệ thuật và Văn chương Mỹ. Đoản văn “Những biến tấu New York” của nhà văn dưới đây được viết một cách dí dỏm, với những nhận xét thú vị, giọng điệu thì hài hước châm biếm và những hình ảnh được sáng tạo một cách độc đáo. Nhưng trên hết là một cái nhìn lạ hoá với nhiều phát hiện của tác giả khi viết về một đô thị và tính cách con người ở đó. Nó có thể là một gợi ý về một lối viết đoản văn kiểu tuỳ bút, bút ký làm tăng thêm hương vị lạ, mới, cho chúng ta.

  • PHONG LÊTrong dằng dặc của giòng đời, có những thời điểm (hoặc thời đoạn) thật ấn tượng. Với tôi, cuộc chuyển giao từ 2006 (năm có rất nhiều sự kiện lớn của đất nước) sang 2007, và rộng ra, cuộc chuyển giao thế kỷ XX sang thế kỷ XXI là một trong những thời điểm như thế. Thời điểm gợi nghĩ rất nhiều về sự tiếp nối, sự xen cài, và cả sự dồn tụ của hiện tại với quá khứ, và với tương lai.

  • XUÂN TUYNHĐầu thập niên chín mươi của thế kỷ trước, tên tuổi của Lê Thị K. xuất hiện trên báo chí được nhiều người biết tới. K. nhanh chóng trở thành một nhà thơ nổi tiếng. Với các bài thơ: “Cỏ”, “Gần lắm Trường Sa” v.v... Nhiều nhà phê bình, nhà thơ không tiếc lời ngợi khen K.

  • NGUYỄN QUANG HÀTrần Văn Thà cùng các bạn chiến binh thân thiết tìm được địa chỉ 160 chiến sĩ năm xưa của đảo Cồn Cỏ, các anh mừng lắm, ríu rít bàn cách gọi nhau ra thăm đảo Tiền Tiêu, nơi các anh đã chiến đấu ngoan cường, in lại dấu son đậm trong đời mình, các anh liền làm đơn gởi ra Tỉnh đội Quảng Trị giúp đỡ, tạo điều kiện cho cuộc gặp gỡ này.

  • TRẦN KIÊM ĐOÀN- Đừng ra xa nữa, coi chừng... hỏng cẳng chết trôi con ơi!Nhớ ngày xưa, mẹ tôi vẫn thường nhắc tôi như thế mỗi buổi chiều ra tắm sông Bồ. Hai phần đời người đi qua. Mẹ tôi không còn nữa. Bến Dấu Hàn trên khúc sông Bồ viền quanh phía Đông làng Liễu Hạ năm xưa nay đã “cũ”.

  • NGUYỄN NGUYÊN ANChúng tôi đến Đông trong những ngày cuối hạ. Thị trấn Khe Tre rực rỡ cờ hoa long trọng kỷ niệm 60 năm Ngày thương binh liệt sĩ. Sau bão số 6 năm 2006, tôi lên Nam Đông, rừng cây hai bên đường xơ xác lá, hơn 700 ha cao su gãy đổ tơi bời và hơn 3.000 ngôi nhà bị sập hoặc tốc mái, đường vào huyện cơ man cây đổ rạp, lá rụng dày mấy lớp bốc thum thủm, sức tàn phá của bão Xangsane quả ghê gớm!

  • Trang Web văn học cá nhân là một nhu cầu tương thuộc giữa tác giả và độc giả của thời đại thông tin điện tử trên Internet. Hoặc nói cách khác, nó là nhu cầu kết nối của một thế giới ảo đang được chiếu tri qua sự trình hiện của thế giới đồ vật.So với đội ngũ cầm bút thì số lượng các nhà văn có trang Web riêng, nhất là các nhà văn nữ còn khá khiêm tốn nhưng dù sao, nó cũng đã mở thêm được một “không gian mạng” để viết và đọc cho mỗi người và cho mọi người.

  • NGUYỄN NGỌC TƯSinh năm 1976. Quê quán: huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau.Hiện là biên tập viên Tạp chí Bán đảo Cà MauNguyễn Ngọc Tư từng đạt nhiều giải thưởng trung ương và địa phương. Trong đó, truyện vừa Cánh đồng bất tận (giải thưởng Hội Nhà văn Việt ) đã được chuyển ngữ qua tiếng Hàn Quốc. http://ngngtu.blogspot.com

  • VÕ NGỌC LANThuở nhỏ, tôi sống ở Huế. Mỗi lần nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình, tôi vẫn gọi đó là ký ức xanh.

  • TÔN NỮ NGỌC HOATôi còn nhớ như in cảnh cả nhà ngồi há miệng nghe chính cậu em tôi là thanh niên xung phong trở về từ Đắc Lắc sau đợt đi khai hoang chuẩn bị đưa dân lập vùng kinh tế mới kể chuyện.

  • TRẦN HẠ THÁPThời gian tuôn chảy vô tình. Con người mê mải cuốn theo dòng cho đến khi nhìn lại thì tuổi đời chồng chất… Ngày thơ dại đã mịt mờ trong kỷ niệm. Mặt trăng rằm tỏa rạng còn đó nhưng dường như không còn là màu trăng xưa cũ. Thứ ánh sáng hồn nhiên một thuở mang sắc màu kỳ diệu không thể nào vẽ được. Dường như chưa trẻ thơ nào ngước nhìn trăng mà sợ hãi.

  • TRẦN HOÀNGCũng như nhiều bạn bè cùng thế hệ, vào những năm cuối thập niên năm mươi của thế kỷ trước, chúng tôi đã được tiếp xúc với Văn học Nga - Xô Viết thông qua nhiều tác phẩm được dịch từ tiếng Nga ra tiếng Việt. Lứa tuổi mười bốn, mười lăm học ở trường làng, chúng tôi luôn được các thầy, cô giáo dạy cấp I, cấp II động viên, chỉ bảo cho cách chọn sách, đọc sách…

  • MAI TRÍHễ có dịp lên A Lưới là tôi lại đến thăm gia đình mẹ Kăn Gương. Song, lần này tôi không còn được gặp mẹ nữa, mẹ đã đi xa về cõi vĩnh hằng với 6 người con liệt sỹ của mẹ vào ngày 08/01/2006.

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCNếu cắt một lát cắt tương đối như cơ học trong hành trình trùng tu di tích, cắt thời gian dương lịch của năm 2007, sẽ thấy đây là năm mà người ta nhận ra di sản Huế đang mỉm cười từ trong rêu cỏ dẫu đây đó vẫn còn có nhiều công trình đang thét gào, kêu cứu vì đang xuống cấp theo thời gian tính tuổi đã hàng thế kỷ.

  • NGUYỄN QUANG HÀBấy giờ là năm 1976, đất nước vừa thống nhất. Bắc trở về một mối. Người miền Bắc, miền xôn xao chạy thăm nhau, nhận anh em, nhận họ hàng. Không khí một nhà, vui không kể xiết.

  • HÀ VĂN THỊNH Trong cuộc đời của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quãng thời gian ở Huế không phải là ngắn. Lần thứ nhất, từ mùa hè 1895 đến tháng 5 - 1901 và lần thứ hai, từ tháng 5 - 1906 đến tháng 5 - 1909. Tổng cộng, Nguyễn Sinh Cung - Nguyễn Tất Thành (NTT - tên được đặt vào năm 1901) đã sống ở Huế 9 năm, tức là hơn 1/9 thời gian sống ở trên đời. Điều đặc biệt là, bước ngoặt quyết định của NTT đã diễn ra ở Huế; trong đó, việc tham gia vào phong trào chống thuế có ý nghĩa quan trọng nhất.

  • NGÔ ĐỨC TIẾNVào những năm 1950 đến năm 1954, tại khu rừng Khuổi Nậm, Tân Trào. Ở chiến khu Việt Bắc, người ta thấy một cán bộ khoảng trên dưới 40 tuổi, người tầm thước, nói giọng Nghệ trọ trẹ, thường có mặt ở các cuộc họp quan trọng của Chính phủ kháng chiến để làm thư ký tốc ký cho Trung ương và Hồ Chủ tịch.

  • LÊ HUỲNH LÂMNhững ngày mưa gió lê thê của mùa đông ngút ngàn vừa đi qua, những trận lụt bất thường gây nên bao tan tác, để lại những vệt màu buồn thảm trên gương mặt người dân nghèo xứ Huế, các con đường đầy bùn non và mịt mùng từng đám bụi phù sa, những vết thương còn âm ỉ trong hồn người…

  • HỒ ĐĂNG THANH NGỌCCâu chuyện tôi sắp kể với các bạn dưới đây không phải là một câu chuyện thuộc huyền sử về lửa cỡ như ngọn lửa Prométe hay biểu tượng lửa trong đạo Hinđu, hay lửa trong Kinh Dịch tương ứng với phương nam, màu đỏ, mùa hè...