Huế một thuở... trong tôi

10:33 30/01/2011

LÊ QUANG KẾT                
                  Tùy bút

Hình như văn chương viết về quê hương bao giờ cũng nặng lòng và giàu cảm xúc - dù rằng người viết chưa hẳn là tác giả ưu tú.

Chỉ bài thơ ngắn lục ngôn “Quê hương” của chàng Đỗ được phổ (nhạc sĩ quá cố Giáp Văn Thạch) mà bao người Việt tha hương nằm lòng ngâm ngợi. Cha ông đã khéo lời khi gọi - quê hương nghĩa nặng tình sâu, là máu thịt, là mẹ cha, là mái ấm ôm ấp những đứa con xa lận đận quay về… Có cậu bé quê hồn nhiên hỏi: - Quê hương là gì hở mẹ? Người nhẹ nhàng âu yếm vuốt tóc khẽ khàng: Nuôi các con khôn lớn thành người. Tôi là người con Huế tha hương, bôn ba bao chồng chất rồi định cư với B’Lao mênh mang sương khói.Vậy mà tôi đã gắn bó hai mươi lăm năm nơi xứ này, B’Lao hương trà ngan ngát B’Lao lao xao buồn vương và bao điều khác giữa bộn bề lo toan cuộc sống. Hai mươi lăm năm xa Huế, xa người thân bạn bè ngày tháng cũ, tôi như nợ nần - người ta bảo thế: Huế đất ly tán, xa để mà nhớ chứ khó gần để thương…

Ngày đó, cơm đùm gạo bới lên dinh trọ học, cậu học trò quê - tôi lần đầu biết hương vị và không khí cà phê phố thị.Chẳng biết thói quen uống cà phê của nhiều người có từ bao giờ? Lạ thật, phải từ thời Pháp thuộc người Việt mới biết tới cà phê, vậy mà giờ hình như nó đang la “văn hóa ẩm” trên đất nước này. Ngồi bên trời B’Lao tôi nhớ về cà phê thuở ấy. Thời sinh viên Huế lũ chúng tôi thường nhật với cà phê chị Giang Tổng hội, thiếu tiền ký sổ với thẻ sinh viên. Bao giờ chị Giang vẫn cười vui - Ừa thiếu, có tiền gởi sớm cho chị nghe. Dáng chị nhỏ nhắn, tất bật mất hút giữa các chàng sinh viên trẻ nghèo nghịch ngợm đáng yêu. Những ngày lang thang, những ván cờ tướng, những buổi lên giảng đường bài vở, những mỏi mệt bởi chiến tranh và lo âu thắc thỏm ngày không xa đến lượt mình phải vào lính. Nhiều bạn bè thân quen từ quân trường ra vừa lớ ngớ đã về bên kia chín suối… Nhạc sĩ tài hoa đất Huế Trịnh Công Sơn đã viết về thân phận lớp trẻ - chủ đề cho giai điệu và ca từ năm tháng ấy: “Sống ở đời này chỉ có thân phận và tình yêu. Thân phận thì hữu hạn. Tình yêu thì vô cùng. Chúng ta làm cách nào nuôi dưỡng tình yêu để tình yêu có thể cứu chuộc thân phận trên cây thập giá đời”. Nuôi dưỡng tình yêu? Làm cách nào? Ngày ấy thế hệ chúng tôi dường như dửng dưng hay vô cảm bất lực trước câu hỏi lớn tình yêu và thân phận.

Tình yêu bất khả tư nghì. Yêu hạnh phúc đan xen khổ đau, yêu giả mà thật - ảo thực tình yêu. Tôi yêu em ngày ấy có sá chi - như trang giấy học trò không tì vết, trong trắng lạ thường. Tôi học Trịnh cố giữ lấy tình yêu, vun vén dưỡng nuôi. Nhưng nào có cứu chuộc được đâu. Những biến động, những đổi thay vỡ vụn đường đời tôi mất em từ ấy…

Những ngày chủ nhật đông Huế túi rủng rỉnh Thành, Thuận, Hiệp, Đức, Xuân và tôi lại thích xuống cà phê Thọ. Quán nằm sát sông cuối chợ Đông Ba có bến xe buýt và các chuyến đò xuôi Ngã Ba Sình. Bao giờ cũng thế, phải tìm chỗ bởi khách cà phê đã đông nghịt từ sáng sớm. Bếp than đỏ rực lửa tự bao giờ, một chảo nước sôi sùng sục để hâm nóng ly tách trước khi pha chế cà phê. Ông chủ Thọ cẩn trọng tay cầm chiếc gắp được thiết kế đặc trưng - chỉ một công việc gắp ly ra khỏi chảo - từng ly trống không còn bốc khói được vớt ra chúc ngược sạch nước. Cà phê nóng cái ly nóng ấm làm khách nghe ấm lòng như quên đi cái se lạnh mùa đông. Ngồi cà phê Thọ nghe tiếng sông Hương với nhiều thanh âm ồn ã đời thường - chủ đò quay máy xình xịch chuẩn bị xuất bến - chuyến xe tới bà con ào xuống kịp buổi chợ sáng - tiếng hỏi chào lao xao chợ cá, tiếng kỳ kèo trả giá eo sèo… Từ góc khuất này tôi nhìn sông Hương qua lăng kính khác, u tối buồn thương hơn. Một cô gái trên sông tình cờ tôi gặp - cô Sương đò chị Lặn. Tuổi thanh xuân nàng Sương hương sắc phải lênh đênh trên sông đón khách, một lần về thăm quê bị trúng đạn ở chân, Sương thành thương tật, chẳng ai đoái hoài. Sống sông nước phải tìm cách mưu sinh trên sông nước, cô mua chiếc ghe nhỏ chèo ghe từ đò này sang đò khác bán các thứ cho khách đêm. Người thân lần lượt chiến tranh cướp mất, Sương tứ cố vô thân, chiếc ghe là căn lều - nhà của cô gái trên sông. Bữa lời bữa lỗ do vụng về khi đứng lên ngồi xuống… Vậy mà ông trời chẳng tha, trận lụt lớn năm kia đã cuốn trôi Sương và cả chiếc ghe che mưa nắng. Người vạn đò chỉ cứu được cô còn “ghe cần câu” mất tăm. Mất sạch mọi thứ dành dụm cả một đời. Sương ơi, từ nơi này lòng tôi quặn thắt khi nghĩ về em, rơm rớm nước mắt. Sương giờ nơi nao? Đã kịp lên bờ định cư hay vẫn còn bám mạn đò kiếm ăn trên sông nước?

Bạn bè của một thời giờ ly tán. Thuận bạo bệnh mất từ bên kia Thái Bình Dương xa xôi, hôm nhận tin đem tro cốt về nước tôi chẳng thể về. Thành bảo: - Nhạt nhòa vì chẳng còn ai nhận ra hay thấu hiểu thời ấy của tụi mình. Năm ngoái Đức ra đi do chứng đau tim nghiệt ngã, xa vợ con tha phương chẳng lời trăn trối. Từ B’Lao ngóng về Huế tôi cũng chỉ hờ hững điện thoại thăm hỏi mà nghe lòng nặng trĩu… Xuân mất do bệnh nan y từ những năm đói thông tin tôi chẳng hay, chú Hiệp nghe giờ chân đau chỉ nằm một chỗ tôi cũng chỉ biết thế thôi. Sáu đứa còn ba, bao năm rồi chưa có ngày đoàn tụ… Thành ơi! Có nhớ những ngày tháng cũ với Huế một thuở? Năm kia với Thuận lênh đênh Sài Gòn trong chật vật thiếu thốn, mình đã cao hứng: Tao nghèo tiền nhưng sẽ tập tễnh viết, viết về tụi mình, viết về một thời, viết tuổi hai mươi ba mươi và Huế xa… Món nợ tâm cảm - nợ ân tình một thời với bạn bè với Huế, cứ lần lần lữa lữa, chỉ biết vay mà chưa trả - biết rồi có trả được không?

Ngày đất nước hòa bình chúng tôi tình nguyện lên núi dạy chữ cho bà con dân tộc ít người Tà Ôi, Pa Cô, Cà Tu, Pa Hi, Vân Kiều… Nam Đông và A Lưới. Những chàng trai cô gái đôi mươi háo hức lên đường. Phương tiện duy nhất thời ấy là đôi chân, đi gùi gạo, đi cửa hàng Bốt Đỏ, đi xóa mù chữ, đi họp kể cả đi tấp giạt như chữ của Hà Trung đều lội bộ. Mỗi đứa có tên mới gắn với địa danh giảng dạy: Bồng Hồng Quảng, Trung Hồng Bắc, Thành Hồng Thủy phía xa tận Tà Rụt còn tôi Hồng Thái… Tờ báo tường nơi bản doanh đơn vị quân đội - TĐ 6, giọng Chiến A Ngo đủng đỉnh điểm báo - bài tùy bút mơ ước A Lưới về một tương lai gần của Tuấn Hồng Thượng: “…Khu phố Thái Thượng Quảng điện sáng rực một góc trời, tiếng động cơ như xé của Boeing 747 lên xuống làm cho phi trường quốc tế nơi thung lũng này rộn rã, đêm A Lưới như ngày hội hoa đăng…”.Mới đó mà đã ba mươi lăm năm từ độ xa A Lưới.

Mối tình đẹp Thìn - Thương của miền núi ngày đó kết thúc bằng lễ cưới núi khá bất ngờ đầy thú vị. Khách mời băng rừng lội suối cả buổi mới tới nơi - xã Nhâm cũ. Chàng Việt đầu đàn rồi Thẩm, Tùy thông báo: Chú rể cả tháng nay đêm nào cũng vác súng săn tận rừng sâu, cố cho bằng được một đặc sản núi - may mà hôm qua hạ được chú hoẵng tơ… Và thế hôm nay tiệc cưới có hương vị núi. Mọi người khen thịt hoẵng thơm ngon hả hê khoái khẩu. Cuối cùng mới vỡ ra là thịt chó, thuở ấy người Huế mấy ai đụng “mộc tồn” bao giờ. Mấy chị la toáng hoảng lên - cha sinh mẹ đẻ giờ mới đụng cầy tơ, mà lạ ghê… chó kể ra cũng ngon đó chứ… Ác nghiệt thay! Khổ lụy thay! Thương - Cô vợ dịu hiền của Thìn tiệc cưới năm xưa… thoắt gãy cành thiên hương. Thìn giờ ra sao? Có nhớ ngày tháng rã rời ở Huế - chiếc xe đạp rách dựng ở góc trường Việt Hương bị đứa bất lương cuỗm mất. Thìn nói trong thổn thức ngậm ngùi: - Mình mất hết mọi thứ rồi mất thêm chiếc xe tàn có nghĩa lý gì đâu…

Tình đầu vuột mất tôi cố quên. Cõi lòng nghe rỗng không, có lúc tôi đã nghĩ đến một người - nói ra giờ chẳng sao, ai hiểu hay không cũng mặc. Khổng Tử hay từ Kinh thi nhỉ? “Lục thập nhi nhĩ thuận”, Bồng và tôi đang bước vào tuổi ấy - khi người ta tới 60 thì đạt tới mức hoàn hảo - tri hành kiến văn và kinh nghiệm cuộc sống, không còn chướng tai gai mắt vì lý giải được căn nguyên của mọi vấn đề diễn ra chung quanh… Phải không chị Bồng? Những ngày A Lưới ấy tôi thường cười vui nhưng khi gặp Bồng lòng ngổn ngang lóng ngóng - dù lỡ kêu chị Bồng!? Nhớ hôm trễ chuyến xe từ Nam Giao bộ về ngang qua Cầu Mới trời vừa hửng sáng, Bồng mặc bộ đồ lính do Ty giáo dục cấp đặc biệt đối với giáo viên miền núi. Dáng đi, giọng nói, nụ cười, đi bên Bồng nhìn Bồng tôi nghe êm ái - một chút bâng khuâng ngập ngừng muốn nói, thế nào rồi thôi và những lúc gặp sau đó tôi chẳng nên lời - cứ lặng thầm. Lạ lùng, tình yêu chưa lần hò hẹn, chẳng phút cầm tay chứ nói chi chuyện nụ hôn trao gởi. Chị Bồng có còn nhớ hay không? Cũng từ bấy đến giờ tôi chưa lần gặp lại Bồng chỉ nghe tiếng qua điện thoại điều được điều mất mà toàn những lời trách móc nghe nặng nề chẳng vui - chi mà đến thế. Nếu diện kiến, tôi sẽ ngọng nghịu viết thành thơ “Hành Tình Yêu” - “Ta yêu rồi mà em có hay”…

Tôi yêu Hàm Nghi - ngôi trường một thời cắp sách. Trường tôi khiêm tốn hơn so với Quốc Học hay Đồng Khánh và cũng chỉ tồn tại đúng 20 năm(1955-1975). Nghe rằng giờ đang có một Hàm Nghi mới để tiếp nối chỉ dừng ở bậc Trung học cơ sở. Lũ chúng tôi đã có những ngày vui bên mái trường này, nhiều con đường Thành Nội gót mòn chân - đó là những buổi trốn học những hôm la cà thơ thẩn. Biến động chiến cuộc từ làng lên phố và nỗi riêng gia đình có lúc tôi định nghỉ học. Cuối cùng chật vật bài vở tôi cũng vượt qua vũ môn hai kỳ tú tài như thi sĩ Nguyên Sa “thơ hóa” dặn dò “Muốn làm người yêu thì phải đỗ tú tài”. Những thầy cô Hàm Nghi ngày ấy - đang trên quê nhà hay xa tận trời tây - còn hay đã khuất suốt một đời con tri ân - biết nói mấy cho vừa - ơn thầy dạy dỗ con chưa đáp đền. Năm rồi về Sài Gòn dự hội trường Hàm Nghi gặp bạn bè mừng mừng tủi tủi - Thọ có thơ hay trên báo, Khánh khấm khá làm chủ tiệm vàng, Bích mở công ty, Thạch viên chức an nhàn, Triết bao năm rồi vẫn như ngày xưa ấy, Minh bún nụ cười tươi của một thời trai trẻ… Tôi như muốn ôm tất cả. Chao ôi! Ra về hứa lòng không hề rơi nước mắt nhưng đứa nào cũng xao xuyến bùi ngùi.

Xưa nay Huế đẹp và thơ có vạn vạn trang sách và ngàn ngàn tác giả tụng ca với bao ngôn từ diễm lệ. Tôi là kẻ bất tài vô tướng bỏ Huế mà đi, loay hoay bạc tóc chẳng làm nên công cán gì. Hồi ức ngày cũ tôi nghe lòng thổn thức, nhớ Huế đến quay quắt. Nỗi nhớ quê nhà chập chờn mộng mị. Tiên thi Lý Bạch từ gần một nghìn năm trăm năm trước đã nói hộ tiếng lòng những kẻ tha hương: Đầu giường ánh trăng rọi/ Mặt đất như phủ sương/ Ngẩng đầu nhìn trăng sáng/ Cúi đầu nhớ cố hương - Xúc cảm đêm trăng” (Sàng tiền minh nguyệt quang/ Nghi thị địa thượng sương/ Cử đầu vọng minh nguyệt/ Đê đầu tư cố hương - Tĩnh dạ tư). Giữa đất trời huyền hoặc hơi sương, ngẩng nhìn ánh trăng vằng vặc chiếu sáng khắp sân người, hồn ta mơ về quê xưa, thầm lặng cúi đầu thổn thức - nơi đó cũng có một bóng trăng này. Những đêm B’Lao trăng sáng và sương giăng, cảnh vắng lặng một mình dạo bước - cảm xúc bất chợt nao nao đến xót dạ, những lúc như thế tôi muốn tìm về những mảnh vụn ký ức, của cố quận, của sông xưa, núi cũ, quê nhà, tình yêu, bạn bè… Và tôi gọi thầm trong tiềm thức: Huế ơi… một thuở… nay biết đâu mà tìm…

L.Q.K  

(263/01-11)






 
Đánh giá của bạn về bài viết:
0 đã tặng
0
0
0
Bình luận (0)
  • Vùng quê nghèo chúng tôi nằm sát chân núi Hồng Lĩnh có Hàm Anh (nay là xóm 1 xã Tân Lộc) từng sản sinh ra một Tiến sĩ xuất thân Đệ nhị giáp (Hoàng giáp) (1499) đời Lê Hiến tông tên là Phan Đình Tá (1468-?)

  • HỒ DZẾNH
             Hồi ký

    Mai sau dù có bao giờ
    Đốt lò hương ấy, so tơ phím này

                                 NGUYỄN DU

  • LÝ HOÀI THU

    Tôi nhớ… một chiều cuối hạ năm 1972, trên con đường làng lát gạch tại nơi sơ tán Ứng Hòa - Hà Tây cũ, lần đầu tiên tôi nhìn thấy thầy. Lúc đó lớp Văn K16 của chúng tôi đang bước vào những tuần cuối của học kỳ II năm thứ nhất.

  • PHẠM THỊ CÚC

    (Tặng bạn bè Cầu Ngói Thanh Toàn nhân Ngày Thương binh Liệt sĩ)

  • Người ta vẫn nói Tô Hoài là “nhà văn của thiếu nhi”. Hình như chưa ai gọi ông là “nhà văn của tuổi già”. Cho dù giai đoạn cuối trong sự nghiệp của ông – cũng là giai đoạn khiến Tô Hoài trở thành “sự kiện” của đời sống văn học đương đại chứ không chỉ là sự nối dài những gì đã định hình tên tuổi ông từ quá khứ - sáng tác của ông thường xoay quanh một hình tượng người kể chuyện từng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, nhiều thăng trầm của đời sống, giờ đây ngồi nhớ lại, ngẫm lại, viết lại quá khứ, không phải nhằm dạy dỗ, khuyên nhủ gì ai, mà chỉ vì muốn lưu giữ và thú nhận.

  • CAO THỊ QUẾ HƯƠNG

    Tôi được gặp và quen nhạc sĩ Trịnh Công Sơn vào những ngày đầu mùa hè năm 1966 khi anh cùng anh Trần Viết Ngạc đến trụ sở Tổng hội Sinh viên, số 4 Duy Tân, Sài Gòn trình diễn các bài hát trong tập “Ca khúc da vàng”.

  • THÁI KIM LAN

    Lớp đệ nhất C2 của chúng tôi ở trường Quốc Học thập niên 60, niên khóa 59/60 gồm những nữ sinh (không kể đám nam sinh học trường Quốc Học và những trường khác đến) từ trường Đồng Khánh lên, những đứa đã qua phần tú tài 1.

  • Nhung nhăng, tần suất ấy dường như khá dày, là ngôn từ của nhà văn Tô Hoài để vận vào những trường hợp, lắm khi chả phải đi đứng thế này thế nọ mà đương bập vào việc chi đó?

  • Tôi được quen biết GS. Nguyễn Khắc Phi khá muộn. Đó là vào khoảng đầu những năm 80 của thế kỉ trước, khi anh được chuyển công tác từ trường ĐHSP Vinh ra khoa Văn ĐHSPHN.

  • Năm 1960, tôi học lớp cuối cấp 3. Một hôm, ở khu tập  thể trường cấp 2 tranh nứa của tôi ở tỉnh, vợ một thầy giáo dạy Văn, cùng nhà, mang về cho chồng một cuốn sách mới. Chị là người bán sách.

  • DƯƠNG PHƯỚC THU

    LTS: Trên số báo 5965 ra ngày 07/02/2014, báo Thừa Thiên Huế có bài “Vài điều trong các bài viết về Cố Đại tướng Nguyễn Chí Thanh”, của tác giả Phạm Xuân Phụng, trong đó có nhắc nhiều đến các bài viết về Đại tướng đã đăng trên Sông Hương số đặc biệt tháng 12/2013 (số ĐB thứ 11), và cho rằng có nhiều sai sót trong các bài viết đó.

  • NGUYỄN THỊ PHƯỚC LIÊN

    (Thương nhớ Cẩm Nhung của Hương, Lại, Nguyệt, Liên)

  • BÙI KIM CHI

    Trời cuối thu. Rất đẹp. Lá phượng vàng bay đầy đường. Tôi đang trong tâm trạng náo nức của một thoáng hương xưa với con đường Bộ Học (nay là Hàn Thuyên) của một thời mà thời gian này thuở ấy tôi đã cắp sách đến trường. Thời con gái của tôi thênh thang trở về với “cặp sách, nón lá, tóc xõa ngang vai, đạp xe đạp…”. Mắt rưng rưng… để rồi…

  • LÊ MINH
    Nguyên Tư lệnh chiến dịch Bí thư Thành ủy Huế (*)

    … Chỉ còn hai ngày nữa là chiến dịch mở; tôi xin bàn giao lại cho Quân khu chức vụ "chính ủy Ban chuẩn bị chiến trường" để quay về lo việc của Thành ủy mà lúc đó tôi vẫn là Bí thư.

  • NGUYỄN KHOA BỘI LAN

    Cách đây mấy chục năm ở thôn Gia Lạc (hiện nay là thôn Tây Thượng) xã Phú Thượng có hai nhà thơ khá quen thuộc của bà con yêu thơ xứ Huế. Đó là bác Thúc Giạ (Ưng Bình) chủ soái của Hương Bình thi xã và cha tôi, Thảo Am (Nguyễn Khoa Vi) phó soái.

  • (SHO). Nhân dân Việt Nam khắc sâu và nhớ mãi cuộc chiến đấu can trường bảo vệ biên giới tổ quốc thân yêu tháng 2/1979. Điều đó đã thêm vào trang sử hào hùng về tinh thần bảo vệ chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ thiêng liêng của dân tộc.

  • NGUYỄN CƯƠNG

    Có nhiều yếu tố để Cố đô Huế là một trung tâm văn hóa du lịch, trong đó có những con đường rợp bóng cây xanh làm cho Huế thơ mộng hơn, như đường Lê Lợi chạy dọc bên bờ sông Hương, đường 23/8 đi qua trước Đại Nội, rồi những con đường với những hàng cây phượng vỹ, xà cừ, bằng lăng, me xanh... điểm tô cho Huế.

  • HOÀNG HƯƠNG TRANG

    Cách nay hơn một thế kỷ, người Huế, kể cả lớp lao động, nông dân, buôn bán cho đến các cậu mợ, các thầy các cô, các ông già bà lão, kể cả giới quý tộc, đều ghiền một lại thuốc lá gọi là thuốc Cẩm Lệ.

  • PHẠM HỮU THU

    Với tư cách là Bí thư Tỉnh ủy lâm thời và Chủ tịch Uỷ ban Mặt trận Việt Nam độc lập đồng minh (Việt Minh) của tỉnh Thừa Thiên - Huế, đầu năm 1942, sau khi vượt ngục trở về, đồng chí Nguyễn Chí Thanh đã có quãng thời gian gắn bó với vùng đầm Cầu Hai, nơi có cồn Rau Câu, được Tỉnh ủy lâm thời chọn làm địa điểm huấn luyện đội ngũ cán bộ, đảng viên.
    Để đảm bảo bí mật và an toàn, Tỉnh ủy đã chọn một số cơ sở là cư dân thủy diện đảm trách việc bảo vệ và đưa đón cán bộ.
    Số cơ sở này chủ yếu là dân vạn đò của làng chài Nghi Xuân.

  • TRẦN NGUYÊN

    Thăm Khu lưu niệm Đại tướng Nguyễn Chí Thanh, như được trở về mái nhà thân thương nơi làng quê yêu dấu. Những ngôi nhà bình dị nối nhau với liếp cửa mở rộng đón ánh nắng rọi vào góc sâu nhất.