Thừa Thiên Huế đang đứng trước cơ hội rất lớn để xây dựng Huế trở thành một đô thị lớn với đầy đủ tầm vóc, tính chất sánh ngang tầm với thủ đô Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh.
Ảnh: Phạm Bá Thịnh
Huế trong tương lai là một trung tâm đô thị cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, một trong những trung tâm kinh tế, văn hóa, khoa học - công nghệ, y tế, giáo dục đào tạo lớn của cả nước và khu vực các nước Đông Nam Á. Mục tiêu đó đặt ra: - Tốc độ đô thị hóa sẽ được đẩy nhanh nhưng đồng thời phải bảo đảm hướng tới sự phát triển bền vững. Nhưng phát triển như thế nào là phát triển bền vững? Phát triển bền vững Có thể nói phát triển bền vững là cụm từ được đề cập hầu hết trong các văn bản định hướng phát triển kinh tế xã hội của cả nước cũng như các địa phương. Tuy nhiên hiểu thấu đáo nội dung về nó là điều không đơn giản, thậm chí còn mù mờ, và trong chừng mực nào đó còn dừng ở khẩu hiệu chúng ta đều biết: phát triển là một quy luật tất yếu của xã hội, sự phát triển đó phải được hiểu là một tiến trình đưa xã hội lên trình độ hạnh phúc cao hơn cả vật chất lẫn tinh thần. Tiến trình đó bao gồm phát triển kinh tế để mang lại phúc lợi vật chất cao hơn, phát triển văn hóa xã hội và tiến trình dân chủ hóa để đem lại những thỏa mãn tinh thần cao hơn. Nói chung, nếu đại đa số dân chúng được hưởng mức độ phúc lợi cao hơn trong quá trình thăng tiến thì đó mới là phát triển bền vững. Ở thời điểm này, khi đề cập đến phát triển bền vững hầu như mọi người đều thống nhất: - Phát triển bền vững là sự phát triển đáp ứng được nhu cầu hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng của các thế hệ tương lai trong việc đáp ứng những nhu cầu của họ. Điều này được hiểu phát triển bền vững là sự phát triển không làm tổn hại đến môi trường, không gây ra những thảm họa về sinh thái. Thế hệ hôm nay khai thác tài nguyên thiên nhiên hợp lý nhằm thỏa mãn nhu cầu của mình mà không ảnh hưởng đến việc thỏa mãn nhu cầu của thế hệ mai sau. Có thể nói phát triển bền vững là sự phát triển dài hạn, là quá trình tái sản xuất liên tục nhưng lại không để lại hậu họa cho đời sau. Tất nhiên, ngược lại những mục tiêu trên là phát triển không bền vững, cái mà người ta thường gọi nôm na là phát triển “nóng”. Thành phố nay đào mai lấp mà chúng ta thường thấy thì đó là phát triển “nóng”; xây dựng một khu đô thị mới để rồi biến những khu dân cư lân cận sống trong lầy lội nhếch nhác, đó là phát triển “nóng”. San ủi mặt bằng, phân lô bán đất trong phát triển đô thị như ở nhiều thành phố trong cả nước hiện nay là phát triển “nóng”; thành phố mới mưa đã lụt là phát triển “nóng”; phát triển nóng còn biểu hiện ở sự ô nhiễm ngày càng tăng của các con sông, của môi trường sống. Trong đầu tư phát triển đâu là nội lực của địa phương và người dân sở tại, bao nhiêu phần trăm là ngoại lực, tỉ lệ này cũng biểu hiện phát triển “nóng” và “bền vững”. Ngay cả việc chế ngự thiên nhiên, bàn tay con người đụng vào thiên nhiên đều phải trả giá, nhưng không lường hết giá phải trả thì hậu quả của nó sẽ vô cùng tai hại thì đó là phát triển “nóng”. Thừa Thiên Huế với diện tích 5000km2, dân số trên 1,1 triệu người, có rừng, có biển, có trung du, đồng bằng, đầm phá, có nhiều khu bảo tồn sinh thái lớn; có nhiều di sản văn hóa thế giới, đặc biệt là đô thị di sản Huế; là trung tâm văn hóa, du lịch, y tế chuyên sâu, đào tạo đa ngành, đa lĩnh vực của miền Trung và cả nước... Đây là những điểm chính để tạo nên một đô thị bền vững; và có thể nói Huế là thành phố có nhiều điều kiện nhất trên cả nước hướng tới sự phát triển bền vững. Vấn đề đặt ra là lộ trình của Huế đi lên như thế nào để giải tỏa những thách thức và nguy cơ tiềm ẩn giữa tăng trưởng nhanh và phát triển bền vững, giữa phát triển và bảo tồn, vấn đề biến đổi khí hậu, vấn đề bảo vệ những giá trị truyền thống và quá trình thúc đẩy hiện đại hóa, công nghiệp hóa; vấn đề con người, nguồn lực, cơ chế chính sách. Những tiêu chí Đưa Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương là một hiện tượng độc đáo trong quá trình phát triển đô thị ở Việt Nam. Đây không chỉ là khát vọng của người dân mà còn là mong muốn của đất nước. Điều này đặt ra cho Huế xây dựng lộ trình đi lên của mình bảo đảm trở thành một đô thị hiện đại giàu tính nhân văn. Đô thị phát triển có chất lượng kể cả quy hoạch và kiến trúc cảnh quan, về dịch vụ hạ tầng xã hội và hạ tầng kỹ thuật đô thị; về môi trường kinh tế, văn hóa, xã hội và sinh thái; về nếp sống văn minh đô thị... phải đạt các mục tiêu làm tăng giá trị chất lượng cuộc sống. Và để đạt được mục tiêu này, thành phố cần xác định những giá trị quan trọng mang tính sống còn với Huế về môi trường, tài nguyên, văn hóa... Từ đó xây dựng những tiêu chí đánh giá mức độ phát triển bền vững, chính những tiêu chí này sẽ làm hạn chế những tăng trưởng “nóng”, phát triển thiếu bền vững. Trước hết, trong phát triển đô thị cần có những tiêu chí bảo đảm tầm nhìn dài hơi, tôn trọng đô thị cũ với quỹ kiến trúc vô giá, phát triển đô thị mới trong không gian thông thoáng; cái mới phải hài hòa cái cũ, không phủ định cái cũ mà làm phong phú thêm quỹ kiến trúc đô thị. Đây là vấn đề luôn nóng hổi trong quá trình xây dựng và phát triển thành phố cả trăm năm nay. Phải dành một quỹ đất thích ứng cho công viên, cây xanh và các công trình phúc lợi công cộng. Phải ưu tiên làm sạch trước, phát triển sau; phát triển giao thông gắn liền với thoát nước. Có lộ trình thích ứng đẩy lùi ô nhiễm trên các dòng sông. Về phát triển kinh tế, đô thị sinh thái cần có cách nghĩ, cách làm ăn khác không thể tính toán như lâu nay. Đặc biệt, yếu tố môi trường phải được cơ cấu vào giá thành sản phẩm, thí dụ như tài nguyên nước chẳng hạn: sản xuất 1 tấn lúa cần bao nhiêu nước, việc khai thác nước phục vụ sản xuất công nghiệp như làm thủy điện, sản xuất xi măng, nuôi tôm ở vùng ven biển, đầm phá... ảnh hưởng đến môi trường như thế nào. Có lẽ do chưa đưa yếu tố môi trường vào giá thành sản phẩm nên có người cho rằng đầu tư ở Thừa Thiên Huế hiệu quả hơn các nơi khác? Trước đây, thành phố đã có nỗ lực rất lớn di chuyển các cơ sở sản xuất gây ô nhiễm môi trường ra khỏi Nội thành, nay nên tính toán loại bỏ hẳn những cơ sở sản xuất thiết bị lạc hậu, làm ăn thua lỗ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng. Đồng thời có chính sách khuyến khích ưu đãi đối với những cơ sở sản xuất sạch. Về mặt xã hội phát triển đô thị sẽ làm cho phân hóa giàu nghèo trở nên gay gắt. Chúng ta điều biết quá trình đô thị hóa, sự phát triển các khu công nghiệp, cơ sở hạ tầng không thể tách rời vấn đề thu hồi đất. Đồng hành cùng quá trình này là sự thu hẹp nhanh chóng diện tích đất nông nghiệp, xuất hiện ngày càng nhiều những hộ nông dân còn rất ít đất và không có đất sản xuất nông nghiệp, bên cạnh đó là sự di dời của một bộ phận dân cư ra khỏi nơi sinh sống và sản xuất của họ khi bị thu hồi hết đất ở. Đây chính là bộ phận người dân nghèo nhất, có thu nhập thấp nhất. Vì vậy, cần xây dựng chính sách đền bù giải tỏa bảo đảm cho người dân thực sự có cuộc sống bằng hoặc tốt hơn nơi ở cũ, đủ khả năng ứng phó với tình trạng thiếu việc làm, không có thu nhập, bù đắp những tổn thất vô hình do phát triển đô thị mang lại, hạn chế các tệ nạn nảy sinh... Đây là vấn đề cộm lên trong tiến trình dân chủ hóa, việc khiếu kiện của người dân lâu nay tập trung chủ yếu vẫn ở lĩnh vực này. Chính khoảng cách giàu nghèo ngày càng phân hóa, ảnh hưởng rất lớn đến phát triển bền vững. Đã đến lúc thành phố cần xây dựng và thực thi chính sách “người gây ô nhiễm phải trả tiền”. Xả rác phải trả tiền, đưa chất thải ra môi trường, không qua xử lý phải trả tiền, mức độ trả tiền phải bảo đảm cho việc khắc phục hậu quả. Mới đây, thanh tra Bộ Tài nguyên và Môi trường đã ra quyết định xử phạt trên 2 tỷ đồng đối với 11 doanh nghiệp trong tổng số 15 đơn vị được kiểm tra ở Thừa Thiên Huế về những sai phạm của mình trong bảo vệ môi trường. Đây chỉ mới là tảng băng chìm, chưa thể đánh giá hết những tác động làm cho môi trường ngày càng xấu đi của các cơ sở sản xuất ở các khu công nghiệp, khu du lịch, các làng nghề, cũng như ở các khu dân cư. Việc xử phạt cũng tính đến các cơ quan cấp phép, giám sát làm tăng tính trách nhiệm của các cơ quan hữu quan. Không thể để tình trạng ô nhiễm đến mức nghiêm trọng, không khắc phục mới lập đoàn thanh tra, kiểm tra... Chính sự quyết liệt này sẽ làm hạn chế các hoạt động làm tổn hại đến môi trường, đến hệ sinh thái bảo đảm cho phát triển bền vững. LÊ VĂN LÂN (SH276/2-12) |
Trí thức là những người mà lao động hàng ngày của họ là lao động trí óc, sản phẩm của họ làm ra là những sản phẩm trí tuệ, nhưng sản phẩm ấy phải là những sản phẩm có ích cho xã hội...
Ở Huế ngày xưa, người học trò nào cũng có một “Tủ sách Học trò” riêng tư cho mình và nhà nào cũng có một “Tủ sách Gia đình” để dùng chung trong nhà. Người Huế rất trọng học vấn, rất trọng sự hiểu biết nên rất trọng sách. Vì vậy, họ cất sách rất kỹ. Họ thường cất sách để làm kỷ niệm riêng tư cho mình về sau đã đành mà họ còn cất sách để dành cho đám đàn em con cháu của họ trong gia đình, dùng mà học sau nầy. Người Huế nào cũng đều cùng một suy nghĩ là ở đời, muốn vươn lên cao thì phải học và đã học thì phải cần sách. Đối với họ, sách quý là vậy. Lễ giáo Khổng Mạnh xưa cũng đã đòi hỏi mỗi người Huế thấy tờ giấy nào rớt dưới đất mà có viết chữ Hán “bên trên” là phải cúi xuống lượm lên để cất giữ “kẻo tội Trời”! Người xưa cũng như họ, không muốn thấy chữ nghĩa của Thánh hiền bị chà đạp dưới chân.
1. Trung tâm văn hóa tôi muốn đề cập ở đây là thành phố Huế của tỉnh Thừa Thiên Huế. Đã là một Trung tâm văn hóa thì bao giờ cũng quy tụ nhiều nhân tài lớn, trên nhiều lĩnh vực, từ mọi miền đất nước, thậm chí từ cả ngoài nước, trải qua nhiều thế hệ, nhiều thử thách khó khăn mới vun đắp lên nổi một truyền thống, mà có được truyền thống văn hóa lại càng khó khăn hơn. Trong bài viết này tôi chưa đề cập tới những nhà khoa học, những nhà văn hóa và văn nghệ sĩ xuất sắc đang sống và hoạt động tại Thừa Thiên Huế, mà tôi chỉ muốn nói tới chủ yếu các vị đã qua đời nhưng đã để lại dấu ấn sâu đậm, lâu dài cho mảnh đất này, góp phần quan trọng hình thành nên truyền thống văn hóa Huế.
Trên thế giới có nhiều nền văn hóa khác nhau. Trong mỗi nước, ngoài mẫu số chung về nền văn hóa của cả dân tộc, còn có văn hóa vùng miền được phân định căn cứ vào đặc điểm nhân văn riêng của từng nơi. Nơi nào có được tính cách nhân văn đặc thù thì nơi ấy có văn hóa địa phương hay văn hóa bản địa. Một từ mà các nhà văn hóa học năng sử dụng khi đề cập đến lĩnh vực này là “bản sắc”. Nếu dùng từ bản sắc làm tiêu chí để nhận diện văn hóa thì Việt Nam có nền văn hóa riêng của mình, trong đó có văn hóa Huế.
Tôi quê Hà Tĩnh, nhưng lại sinh ra ở Huế, khi ông cụ tôi ngồi ghế Phủ Doãn, tức là “sếp” cái cơ quan đóng bên bờ sông Hương ở giữa Bệnh viện Trung ương Huế và Trường Hai Bà Trưng - Đồng Khánh xưa, nay đang được xây dựng to đẹp đàng hoàng gấp nhiều lần ngày trước. (Thời Nguyễn phong kiến lạc hậu, nhưng lại có quy chế chỉ những người đậu đạt cao và thường là người ngoại tỉnh mới được ngồi ghế Phủ Doãn để vừa có uy tín, học thức đối thoại được với quan chức trong Triều, vừa tránh tệ bênh che hay cho người bà con họ hàng chiếm giữ những chức vụ béo bở. Nói dài dòng một chút như thế vì nhiều bạn trẻ thời nay không biết “Phủ Doãn” là chức gì; gọi là “Tỉnh trưởng” cũng không thật đúng vì chức Phủ Doãn “oai” hơn, do Huế là kinh đô, tuy quyền hành thực sự người Pháp nắm hầu hết).
*Từ tâm thức kính sợ trời đất đến lễ tế Giao: Từ buổi bình minh của nhân loại, thiên nhiên hoang sơ rộng lớn và đầy bất trắc, với những hiện tượng lạ kỳ mưa gió, lũ lụt, sấm chớp, bão tố... đã gieo vào lòng người nhiều ấn tượng hãi hùng, lo sợ. Bắt nguồn từ đó, dần dần trong lịch sử đã hình thành tập tục thờ trời, thờ đất, thờ thần linh ma quỷ. Đó là nơi trú ẩn tạo cảm giác an toàn cho con người thuở sơ khai. Ở phương Đông, tập tục thờ cúng trời đất, thần linh gắn liền với việc thờ cúng tổ tiên, ông bà, phổ biến từ trong gia đình đến thôn xóm, làng xã. Khi chế độ quân chủ hình thành, một số triều đình đã xây dựng những “điển lệ” quy định việc thờ cúng trời đất, thần linh, với những nghi thức trang trọng, vừa biểu thị quyền uy tối thượng của nhà vua, vừa thể hiện khát vọng mong cầu quốc thái dân an, thiên hạ thái bình, phong hoà vũ thuận của muôn dân.
Sông Hương thuộc loại nhỏ của Việt Nam, nhưng với Thừa Thiên Huế có thể nói là “tất cả”. Hệ thống sông Hương cung cấp nước, tạo môi trường để phát triển gần như toàn bộ nền kinh tế - xã hội của Thừa Thiên Huế, đặc biệt sông Hương còn là biểu tượng của Huế, hai bên bờ mang nặng di sản văn hoá nhân loại. Nhưng đồng thời nó cũng đưa lại những trận lụt lớn vào mùa mưa, nhiễm mặn vào mùa hè...
Huế được Chính phủ xác định là một trong 5 thành phố cấp quốc gia, nằm trong khu vực kinh tế trọng điểm của miền Trung, cơ cấu kinh tế từng bước chuyển dịch theo hướng công nghiệp, dịch vụ du lịch. Quá trình phát triển đô thị, Huế đồng thời cũng đứng trước những thử thách mới, còn nhiều bất cập nhưng Huế vẫn giữ được nét kiến trúc riêng. Hình ảnh một thành phố mà kiến trúc và thiên nhiên hoà quyện, phải chăng đó là bản sắc Huế, khó trộn lẫn với bất kỳ một đô thị nào khác trong cả nước.
I. Toàn cầu hóa và lý luận văn học: I.1. “Toàn cầu hóa” làm cho “thế giới trở nên phẳng” (Thomas F.Fredman). Lý luận văn học là một lĩnh vực khoa học nhằm cắt nghĩa, lý giải, khái quát văn chương, đặt trong khung cảnh đó, nó cũng được “thế giới hóa”, tính toàn cầu hóa này tạo nên một mặt bằng chung, hình thành một ngôn ngữ chung. Từ đó mới có sự đối thoại, tiếp biến học hỏi lẫn nhau giữa các nền lý luận của các châu lục, quốc gia tạo nên một thể thống nhất trong đa dạng.
Đêm Nguyên tiêu 15 tháng giêng Quý Mùi 2003, thực hiện chủ trương của Hội Nhà văn Việt Nam, Hội Văn học Nghệ thuật Thừa Thiên Huế, Chi hội Nhà văn Việt Nam tại TTH đã tổ chức trên sông Hương một đêm thơ rất tuyệt vời. Ban tổ chức cho biết Hội Nhà văn Việt Nam đã được phép quyết định kể từ năm nay lấy ngày 15 tháng giêng âm lịch hằng năm làm Ngày Thơ Việt Nam. Quyết định ấy lay động tâm trí tôi vốn đang ưu tư với Huế Thành phố Festival, thay vì đọc thơ, trong đêm Nguyên tiêu ấy tôi đã phác họa sơ lược về một Festival thơ. Không ngờ ý kiến của tôi được Đêm thơ Nguyên tiêu hưởng ứng và các nhà thơ đã đề nghị tôi nên thực hiện một Hồ sơ cho Festival Thơ.
Trí thức trong bất cứ thời đại nào và ở đâu cũng là một nguồn lực quan trọng, là sức mạnh tinh thần nối kết truyền thống của dân tộc với thành tựu trí tuệ của thời đại. Khi nguồn lực trí tuệ của đội ngũ trí thức gắn kết được với sức mạnh cộng đồng thì xã hội sẽ có những chuyển biến tích cực. Ngược lại, nguồn lực trí tuệ không được phát huy thì năng lực phát triển của xã hội sẽ bị suy thoái. Thừa Thiên Huế có một thời là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của Đàng Trong và trở thành kinh đô của cả nước. Vì thế Huế đã từng là nơi hội tụ nhiều thế hệ trí thức tinh hoa của đất nuớc. Lớp trí thức lớn lên tại Thừa Thiên Huế có điều kiện tiếp cận với những thiết chế và sinh hoạt văn hoá, học thuật có tầm cở quốc gia (Quốc Tử Giám, Quốc Sử Quán, Hàn Lâm Viện, Thái Y Viện. Khâm Thiên Giám.. ), năng lực trí tuệ của trí thức ở kinh kỳ có nhiều điều kiện thuận lợi để phát triển, cả trên lĩnh vực tư duy sáng tạo và quản lý, thực hành.
I. Sự hình thành và phát triển hệ thống đường phố ở Huế: Trước khi Huế được chọn để xây dựng kinh đô của nước Việt Nam thống nhất, đất Phú Xuân - Huế kể từ năm 1738 đã là nơi đóng đô thành văn vật của xứ Đàng Trong dưới thời chúa Nguyễn Phúc Khoát. Rồi Phú Xuân lại trở thành kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn. Năm 1802, Nguyễn Phúc Ánh toàn thắng quân Tây Sơn; từ Thăng Long ông trở về Phú Xuân, chọn lại đất ấy, lấy ngày lành, lên ngôi vua, xưng hiệu là Gia Long. Tháng 5 năm 1803, nhà vua sai người ra ngoài bốn mặt thành Phú Xuân, xem xét thực địa, định giới hạn để xây dựng kinh thành mới. Trên cơ sở mặt bằng thành Phú Xuân cũ, lấy thêm phần đất của 8 làng cổ lân cận, mở rộng diện tích để xây dựng nên một kinh thành rộng lớn hơn trước. Cùng với việc xây dựng thành quách, cung điện, nha lại, sở ty... thì đường sá trong kinh thành cũng được thiết lập.
Thừa Thiên Huế là thủ phủ Đàng Trong thời các chúa Nguyễn, là kinh đô của cả nước dưới thời Tây Sơn và triều Nguyễn, nay là cố đô, một trong những trung tâm văn hoá và du lịch quan trọng của Việt Nam , trải qua quá trình đô thị hoá, vừa mang dấu ấn của một đô thị cổ phương Đông, vừa có đặc trưng của một đô thị mới. Để góp phần định hướng phát triển và tổ chức quản lý vùng đất nầy, một trong những việc cần làm là nên soát xét lại kết quả của quá trình đô thị hóa để lựa chọn những giải pháp quản lý phù hợp.
Trong quá khứ, mảnh đất Phú Xuân - Huế đã được chọn để đóng đô thành của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong, rồi đến kinh đô Đại Việt của nhà Tây Sơn Nguyễn Huệ, sau nữa là kinh đô Việt Nam thống nhất dưới thời họ Nguyễn Phúc trị vì và cuối cùng trở thành cố đô từ sau Cách mạng Tháng 8.1945. Huế đã và đang là thành phố Festival - một thành phố lễ hội mang nhiều thành tố văn hóa đặc trưng của Việt Nam theo một quy chế đặc biệt. Để có cái nhìn khách quan về lịch sử, thiết nghĩ, chúng ta hãy điểm lại vài nét quá trình đi lên của thành phố Huế để trở thành đô thị loại I - đô thị đặc biệt hôm nay.
Hội nghị cán bộ Việt Minh mở rộng vào cuối tháng 4 đầu tháng 5/1945 diễn ra trên đầm Cầu Hai đề ra chủ trương lớn để phát triển phong trào cách mạng tỉnh Thừa Thiên Huế, chuẩn bị cùng cả nước khởi nghĩa cướp chính quyền khi có thời cơ. Sau hội nghị, phong trào cách mạng phát triển đều khắp trong toàn tỉnh. Đầu tháng 8, được tin quân đội Nhật bị quân đồng minh đánh bại ở nhiều nơi, nhất là ở Mãn Châu Trung Quốc, Thường vụ Việt Minh dự đoán ngày Nhật theo chân phát xít Đức bị đánh bại không còn xa, đã quyết định đẩy mạnh chuẩn bị khởi nghĩa. Giữa tháng 8 được tin Nhật Hoàng sẵn sàng đầu hàng, Thường vụ Việt Minh chỉ đạo các huyện khởi nghĩa. Sau khi tất cả các huyện phụ cận Huế khởi nghĩa thành công, ngày 20/8 Thường vụ Việt Minh triệu tập 6 huyện bàn quyết định chọn ngày 23.8.1945 là ngày khởi nghĩa giành chính quyền. Cũng ngay chiều ngày 20.8.1945 phái đoàn Trung ương có cụ Hồ Tùng Mậu, anh Nguyễn Duy Trinh và anh Tố Hữu đã đến Huế, vì Huế là thủ đô của chính quyền bù nhìn lúc bấy giờ. Khởi nghĩa ở Huế mang sắc thái đặc biệt có tính chất quốc gia. Ta giành lại chính quyền không phải từ tay một tỉnh trưởng mà là từ triều đình nhà Nguyễn - Bảo Đại ông vua cuối cùng, bên cạnh Bảo Đại lại có cả bộ máy chính quyền Trần Trọng Kim do Nhật lập ra. May mắn thay đoàn phái bộ Trung ương vào kịp thời nên vẫn giữ nguyên ngày khởi nghĩa (23.8.1945). Đêm 20.8.1945 cuộc họp của phái đoàn Trung ương và Thường vụ Tỉnh ủy thông qua kế hoạch khởi nghĩa của tỉnh và cử ra Ủy ban khởi nghĩa gồm có: anh Tố hữu là Chủ tịch đại diện cho Trung ương, tôi làm Phó Chủ tịch (PCT) đại diện cho Đảng bộ và Mặt trận Việt Minh địa phương cùng một số ủy viên: Lê Tự Đồng, Lê Khánh Khang, Hoàng Phương Thảo, Nguyễn Sơn...
Ba mươi năm trước, cùng với lực lượng cách mạng, những người làm Báo Cờ Giải Phóng của Đảng bộ Thừa Thiên Huế sôi nổi chuẩn bị số báo đặc biệt và có mặt trong đoàn quân tiến về giải phóng quê hương. Tháng 10/1974, chúng tôi được tham gia hội nghị Tỉnh ủy mở rộng bàn về đẩy mạnh nhiệm vụ đánh kế hoạch bình định, mở rộng vùng giải phóng nông thôn đồng bằng, phối hợp có hiệu quả với các chiến trường, góp phần giải phóng miền Nam, Thường vụ Tỉnh ủy giao nhiệm vụ cho Báo Cờ Giải Phóng ra số báo đặc biệt, nội dung phong phú, hình thức hấp dẫn để chuyển tải khí thế cách mạng miền Nam và trong tỉnh, đưa mệnh lệnh, lời kêu gọi của Mặt trận Dân tộc Giải phóng Thừa Thiên Huế và các chính sách của Mặt trận đối với vùng giải phóng.
Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước vĩ đại của dân tộc, lực lượng an ninh huyện Phú Vang đã nêu cao chủ nghĩa anh hùng cách mạng, với 95 thương binh, 135 liệt sĩ và không có một cán bộ, chiến sĩ nào đầu hàng phản bội, lực lượng an ninh huyện Phú Vang và 4 cán bộ an ninh huyện đã được Đảng, Nhà nước phong tặng danh hiệu cao quý “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Trong mọi thời đại Hoàng đế và kẻ sĩ có mối quan hệ đặc biệt. Đó là mối quan hệ giữa người cầm quyền và người trí thức có nhân cách và tài năng. Khi Hoàng đế là minh quân thì thu phục được nhiều kẻ sĩ, khi Hoàng đế là hôn quân thì chỉ có bọn xu nịnh bất tài trục lợi bên mình còn kẻ sĩ bị gạt ra ngoài thậm chí có khi bị giết hại. Lịch sử bao triều đại đã chứng minh điều đó. Mối quan hệ giữa Hoàng đế Quang Trung Nguyễn Huệ và La Sơn Phu tử Nguyễn Thiếp của thế kỷ XVIII là cuộc hội ngộ lớn, mang đến nhiều lợi ích cho quốc gia và có ý nghĩa cho muôn đời. Nguyễn Huệ và Nguyễn Thiếp đều sống trong bối cảnh triều Lê suy tàn, chúa Trịnh lộng hành, chúa Nguyễn mới nổi dậy. Sau gần 300 năm hết nội chiến Lê Mạc đến Trịnh Nguyễn phân tranh đời sống nhân dân vô cùng khốn khổ. Trong bối cảnh đó Nguyễn Huệ cùng anh là Nguyễn Nhạc dựng cờ khởi nghĩa, Nguyễn Thiếp cáo quan về ở ẩn.
Năm 2008 là một năm khá kỳ lạ và đặc biệt của loài người. Nửa năm đầu, cả nhân loại thăng hoa với các chỉ số chi tiêu mà ngay cả các chiến lược gia kinh tế cũng phải bàng hoàng. Nửa năm cuối, quả bóng phát triển, ổn định bị lưỡi dao oan nghiệt của khủng hoảng đâm thủng nhanh đến nỗi hàng ngàn đại gia bị phá sản rồi, vẫn chưa lý giải nổi hai chữ “tại sao”. Bất ổn và đổi thay còn chóng mặt hơn cả sự thay đổi của những đám mây. Không phải ngẫu nhiên mà người Nhật lại chọn từ “thay đổi” (kanji) là từ của năm, vì B. Obama đã chiến thắng đối thủ bằng chính từ này (change)...
Bạn đọc thân mến! Hiệp hội Đo lường Thời gian quốc tế đã quyết định kéo dài thời gian của năm 2008 thêm 1 giây, và chúng ta đã chờ thêm 1 giây để đón chào năm mới. Sau thời khắc 23 giờ 59 phút 59 giây của ngày 31.12.2008, không phải là giây đầu tiên của năm mới mà phải sau thời khắc 23 giờ 59 phút 60 giây cùng ngày, năm 2009 - năm lẻ cuối cùng của thế kỷ 21, mới chính thức bắt đầu. Nhân loại đã có thêm một giây để nhìn lại năm cũ và bước sang năm mới. Và trong một giây thiêng liêng ấy, chắc chắn nhiều ý tưởng sáng tạo đã xuất hiện, nhiều tác phẩm nghệ thuật vừa hoàn tất, âm tiết cuối của câu thơ cuối một bài thơ vừa được nhà thơ viết xong và buông bút mãn nguyện. Cùng với ly rượu vang sóng sánh chúc mừng năm mới được nâng lên, cái đẹp, cái cao cả tiếp tục xuất hiện để phụng sự nhân loại và chắc chắn, những nụ hôn của tình yêu thương đã kéo dài thêm một giây đầy thiêng liêng để dư vị hạnh phúc còn vương mãi trên môi người.